Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023

Báo Nga: Bảy nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam

Báo Nga: Bảy nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam
Hôm nay 30/04/2023, hàng loạt tờ báo Nga đã đăng bài kỷ niệm cuộc chiến Việt Nam và cơ ngợi chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, tờ “Báo Nga”, báo chính thức của Chính phủ Nga, có bài viết “Bảy nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam”, tác giả là Nhikolai Grishenko. Xin giới thiệu tóm lược Bảy nguyên nhân đó.

Ngày 15 tháng 1 năm 1973, Quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh ngừng tiến hành các hoạt động quân sự tại Việt Nam. Mỹ giải thích là sau 4 năm đàm phán ở Paris, các bên tham gia cuộc xung đột vũ trang đã đạt được một thỏa thuận nhất định. Vài ngày sau, vào ngày 27 tháng 1, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết tại Paris. Theo các thỏa thuận đã đạt được, quân đội Mỹ, thiệt hại 58 nghìn người kể từ năm 1965, đã rời khỏi miền Nam Việt Nam.

Cho đến nay, các nhà sử học, quân sự và chính trị gia vẫn chưa thể trả lời dứt khoát câu hỏi: "Làm thế nào mà người Mỹ thua cuộc chiến trong khi họ không thua một trận nào?"

Dưới đây là bảy nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam:

1. Vũ trường “địa ngục trong rừng rậm” - ngôn từ mà binh lính và sĩ quan Mỹ gọi nơi xảy ra Chiến tranh Việt Nam. Mặc dù có ưu thế vượt trội về vũ khí và lực lượng (số lượng quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam năm 1968 là 540 nghìn người), họ đã thất bại trong việc đánh bại các đối phương. Ngay cả những trận ném bom rải thảm, trong đó máy bay Mỹ thả 6,7 triệu tấn bom xuống Việt Nam, cũng không thể “đẩy người Việt Nam vào thời kỳ đồ đá”. 

Đồng thời, tổn thất của quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của họ không ngừng tăng lên. Trong những năm chiến tranh, người Mỹ mất 58.000 người chết trong rừng, 2.300 người mất tích và hơn 150.000 người bị thương. Danh sách thiệt hại chính thức không bao gồm những người Puerto Rico được tuyển dụng vào quân đội Hoa Kỳ để có được quốc tịch Hoa Kỳ. Mặc dù các hoạt động quân sự đôi khi thành công, nhưng Tổng thống Richard Nixon nhận ra rằng không thể đạt được chiến thắng cuối cùng.

2. Quân đội Hoa Kỳ bạc nhược, mất tinh thần. Đào ngũ trong chiến dịch Việt Nam là một hiện tượng khá phổ biến. Chỉ cần nhớ lại rằng võ sĩ hạng nặng nổi tiếng người Mỹ Cassius Clay đã chuyển sang đạo Hồi khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp và lấy tên là Muhammad Ali để không phải phục vụ trong quân đội Mỹ. Vì hành động này, anh đã bị tước mọi danh hiệu và bị đình chỉ thi đấu trong hơn ba năm. 

Sau chiến tranh, Tổng thống Gerald Ford vào năm 1974 đã ân xá cho tất cả những người trốn quân dịch và đào ngũ. Hơn 27.000 người đã đến xưng tội. Sau đó, vào năm 1977, người đứng đầu tiếp theo của Nhà Trắng, Jimmy Carter, đã ân xá cho những người trốn khỏi Hoa Kỳ để không bị nhập ngũ.

3. “Chúng tôi biết rằng kho bom và tên lửa của các bạn sẽ cạn kiệt trước tinh thần của các chiến binh của chúng tôi,” cựu “Việt Cộng” Bảy Cao nói với nhà sử học Mỹ và cựu chiến binh Đông Dương David Hackworth. 

Anh ấy cũng nói thêm: "Vâng, chúng tôi yếu hơn về vật chất, nhưng tinh thần và ý chí của chúng tôi mạnh mẽ hơn của các bạn. Cuộc chiến của chúng tôi là chính nghĩa, còn của các bạn thì không. Bộ binh của các bạn biết điều đó, cũng như người dân Mỹ." 

Nhà sử học Philip Davidson cũng chia sẻ quan điểm này, ông đã viết: “Trong suốt cuộc chiến, Hoa Kỳ ít nghĩ đến những hậu quả chính trị, kinh tế và tâm lý của các hoạt động quân sự của mình".

4. Chiến tranh nhân dân. Hầu hết người Việt Nam đứng về phe du kích. Họ cung cấp cho họ thức ăn, thông tin tình báo, tân binh và lao động. Trong các bài viết của mình, David Hackworth trích dẫn câu nói của Mao Trạch Đông rằng "nhân dân đối với quân du kích chẳng khác gì cá với nước: lấy nước ra thì cá sẽ chết." 

“Yếu tố đã hàn gắn và gắn kết những người cộng sản ngay từ đầu là chiến lược chiến tranh giải phóng cách mạng của họ. Nếu không có chiến lược này thì chiến thắng của những người cộng sản sẽ không thể nào thắng được. Chiến tranh Việt Nam phải được nhìn qua lăng kính của chiến lược chiến tranh nhân dân, rằng đây không phải là vấn đề nhân lực” một nhà sử học người Mỹ khác, Philip Davidson đã viết.

5. Chuyên nghiệp so với nghiệp dư. Các binh sĩ và sĩ quan của quân đội Việt Nam đã chuẩn bị tốt hơn nhiều so với người Mỹ cho cuộc chiến trong rừng, vì họ đã chiến đấu để giải phóng Đông Dương kể từ Thế chiến thứ hai. 

Đối thủ đầu tiên của họ là Nhật Bản, sau đó là Pháp, rồi Mỹ. "Khi ở Mai Hiệp, tôi cũng đã gặp Đại tá Lee Lam và Đặng Viết Mai. Họ đã từng là tiểu đoàn trưởng trong gần 15 năm," David Hackworth nhớ lại. 

Lam và Mai có thể được so sánh với các huấn luyện viên của các đội bóng chuyên nghiệp, những người mỗi mùa chơi trong trận chung kết để giành giải thưởng siêu hạng, trong khi các chỉ huy người Mỹ giống như những giáo viên toán má hồng, thay thế các huấn luyện viên chuyên nghiệp của chúng tôi, tận tụy hy sinh cho nghề nghiệp. Để trở thành tướng lĩnh, các "tay chơi" của chúng tôi đã liều mạng chỉ huy các tiểu đoàn ở Việt Nam trong sáu tháng và Mỹ đã thua."

6. Biểu tình phản chiến và tâm trạng của xã hội Mỹ. Nước Mỹ rung động trước hàng nghìn người biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. Một phong trào mới, hippies, nổi lên từ những thanh niên phản đối cuộc chiến này. Phong trào lên đến đỉnh điểm với cái gọi là "Cuộc tuần hành tới Lầu Năm Góc", khi có tới 100.000 thanh niên tập trung tại Washington vào tháng 10 năm 1967 để phản đối chiến tranh, cũng như các cuộc biểu tình trong Đại hội Đảng Dân chủ Hoa Kỳ tại Chicago vào tháng 8 năm 1968. 

Chỉ cần nhắc lại rằng John Lennon, người phản đối chiến tranh, đã viết bài hát "Give Peace a Chance". Nghiện ma túy, tự tử, đào ngũ lan rộng trong quân đội. Các cựu chiến binh bị truy đuổi bởi "Hội chứng Việt Nam", vì hàng nghìn cựu quân nhân và sĩ quan đã tự kết liễu đời mình. Trong những điều kiện như vậy, việc tiếp tục chiến tranh là vô nghĩa.

7. Sự giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô. Nếu các đồng chí từ 
Trung Quốc hỗ trợ chủ yếu về kinh tế và nhân lực cho Việt Nam, thì Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam những vũ khí tối tân nhất của mình. Theo ước tính sơ bộ, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam ước tính khoảng 8-15 tỷ đô la. Trong khi đó chi phí tài chính của Hoa Kỳ tại VN, dựa trên các ước tính hiện đại, đã vượt quá một nghìn tỷ đô la Mỹ. 

Ngoài vũ khí, Liên Xô còn cử chuyên gia quân sự sang Việt Nam. Từ tháng 7 năm 1965 đến cuối năm 1974, khoảng 6,5 nghìn sĩ quan và tướng lĩnh, cũng như hơn 4,5 nghìn binh sĩ của Lực lượng Vũ trang Liên Xô đã tham gia chiến sự. Ngoài ra, việc đào tạo quân nhân Việt Nam cũng được thực hiện tại các trường quân sự và học viện của Liên Xô - con số này là hơn 10 nghìn người.

Đó là những nguyên nhân chủ yếu giải thích tại sao Mỹ không thể thắng ở Việt Nam.

Nguồn: Trên mạng







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét