Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng cao
BS Colleen Huber • 20/04/23 Trong vòng 9 tháng kể từ thời điểm vcin CVD được sử dụng nhiều nhất, tỷ lệ sinh ở nhiều quốc gia đã giảm mạnh. Tại sao lại xuất hiện tình trạng này? Liệu rằng tỷ lệ sinh có thể phục hồi không?
1. Những con số thống kê quan trọng - Dữ liệu chưa được công bố...
Kể từ lúc bắt đầu đại dịch COVID-19, nhiều số liệu thống kê quan trọng của các chính phủ trên khắp thế giới đã trở nên khó tiếp cận hơn. Dữ liệu không đầy đủ sẽ khiến chúng ta khó có thể phân tích cũng như hiểu được tình hình thực tế.
Ví dụ: tại thời điểm công bố bài viết này, Massachusetts, New York, Illinois và Washington là bốn trong số những tiểu bang của Hoa Kỳ vẫn chưa cập nhật dữ liệu về số ca sinh từ năm 2019 hoặc năm 2020.
2. Mười chín quốc gia châu Âu
Đến tháng 8 năm 2022, Raimond Hagemann, Ulf Lorré và bác sĩ Hans-Joachim Kremer đã tổng hợp dữ liệu về tình trạng thay đổi tỷ lệ sinh ở 19 quốc gia châu Âu và đưa ra một bản báo cáo rất quan trọng. Những quốc gia này có điểm uốn giảm tỷ lệ sinh giống nhau xuất hiện vào cuối năm 2021.
Đó là thời điểm 9 tháng kể từ lúc vcin được sử dụng nhiều nhất. Đức, Áo, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Latvia, Litva, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Romania và Slovenia cùng với Iceland, Bắc Ireland, Montenegro, Serbia đều có hiện tượng này. Điều này cho thấy số ca sinh đã giảm mạnh vào thời điểm này.
Dữ liệu của Đan Mạch trong nghiên cứu của R Hagemann, U Lorré và cộng sự (trang 31)
Biểu đồ tương ứng của từng quốc gia trong số 19 quốc gia này có một điểm giống nhau: mức tiêu thụ vcin CVD cao nhất là vào mùa xuân năm 2021, sau đó là tỷ lệ sinh giảm đã giảm mạnh vào thời điểm 9 tháng sau đó.
19 quốc gia trong nghiên cứu đều có số ca sinh giảm nhanh trong năm 2022 vào thời điểm này. Lưu ý rằng giá trị p trong bảng cho thấy sự liên kết về thời gian của hai sự kiện. Đặc điểm này đáp ứng tiêu chí tạm thời của Bradford Hill khi xét về nguyên nhân vô sinh. Sự tương quan giữa thời điểm sử dụng nhiều vcin CVD vào mùa xuân năm 2021 và hiện tượng giảm mạnh tỷ lệ 9 tháng sau đó không phải là ngẫu nhiên.
Thụy Điển
Chuyên gia phân tích dữ liệu Gato Malo lưu ý rằng nhiều quốc gia đã không công bố những số liệu thống kê quan trọng. Nếu chỉ với những thông tin không rõ ràng như vậy, chúng ta sẽ khó có thể đánh giá được toàn diện tình hình thực tế.
Ví dụ như ở trường hợp của Thụy Điển, khi đánh giá sự thay đổi số ca sinh hàng tháng, Gato Malo nhận thấy rằng tỷ lệ sinh bắt đầu giảm mạnh từ tháng 11, tháng 12 năm 2021. Điều này tương quan chặt chẽ với tỷ lệ người không tiêm vcin 9 tháng trước đó. Kết quả này cũng tương tự với phát hiện của R Hagemann, U Lorré và các cộng sự. Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ sinh của Thụy Điển vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi sau khi xuất hiện sự suy giảm như vậy. (data scb.se, owid) boriquagato.substack.com
Vương quốc Anh
Cùng thời điểm này, chúng ta cũng có thể nhận thấy hiện tượng giảm tỷ lệ sinh ở Vương quốc Anh. Từ tháng 12 năm 2021, số phụ nữ sinh con không còn ở mức 40.000 mà giảm xuống chỉ còn 30.000, đồng thời giữ nguyên ở con số này. Hãy xem cột “Số phụ nữ sinh con”.
Dữ liệu từ Cơ quan An ninh Y tế của Vương quốc Anh (trang 18):
Khi so sánh với mức giảm hàng năm, chúng ta có thể tính được mức giảm trung bình từ hai quý đầu của năm 2021 so với hai quý đầu của năm 2022, trong đó b là số lần sinh: (Σ b1, 2021…b6, 2021) – (Σ b1, 2022…b6, 2022) = 256,785 – 227,302 = 29,483. Như vậy mức giảm hàng tháng số ca sinh ở Vương quốc Anh là 4.913 ca sinh. Tương tự như Thụy Điển, điểm uốn trên đồ thị của Anh cho thấy sự suy giảm tỷ lệ sinh xảy ra từ 9 – 11 tháng sau thời điểm sử dụng nhiều vaccine nhất.
Theo Đại học Johns Hopkins và trang Our World In Data, thời điểm sử dụng vaccine nhiều nhất ở Anh là vào quý đầu tiên của năm 2021:
Thụy Sĩ
Dữ liệu cho thấy Thụy Sĩ có sự suy giảm tỷ lệ sinh mạnh nhất trong vòng 150 năm, nhiều hơn cả sự suy giảm trong hai cuộc Chiến tranh thế giới, cuộc Đại suy thoái hoặc thậm chí nhiều hơn cả giai đoạn thuốc tránh thai được đưa vào sử dụng rộng rãi.
3. Tại sao lại có sự suy giảm này?
Naomi Wolf đã phát hiện được nhiều báo cáo về hiện tượng bất thường chu kỳ kinh nguyệt ở những phụ nữ đã tiêm vcin CVD và ở cả những phụ nữ đã tiếp xúc với người tiêm vcine. Cô Wolf là người đầu tiên công khai thảo luận về vấn đề này nên trong quá trình thu thập những dữ liệu về những phụ nữ có hiện tượng thay đổi chu kỳ kinh nguyệt, cô đã phải nhận nhiều chỉ trích và bị kiểm duyệt trên mạng xã hội.
Theo lệnh của tòa án, tổ chức Daily Clout của cô Wolf đã tổ chức một nhóm gồm hơn 3.000 nhà nghiên cứu trong đó bao gồm cả bác sĩ Pierre Kory. Nhóm của cô tiến hành phân tích các tài liệu của Pfizer/FDA [Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ] về kết quả của thử nghiệm lâm sàng quy mô 44.000 người của vcin Pfizer. Nhóm Daily Clout đã tóm tắt những phát hiện của họ trong một cuốn sách có tên là: “Báo cáo phân tích tài liệu Pfizer”.
Nhóm nghiên cứu báo cáo những phát hiện của Pfizer về các tổn thương nghiêm trọng trong nhóm 22.000 người tiêm vaccine Pfizer, theo “Đại học Johns Hopkins và dữ liệu trên trang Our World in Data”.
Trong cuốn sách này, nhóm Daily Clout đã bàn luận về tác động của vcin CVDđối với khả năng sinh sản của nam giới và nữ giới. Khi phân tích dữ liệu do chính Pfizer báo cáo, họ phát hiện ra rằng có 270 phụ nữ mang thai trong cuộc thử nghiệm của Pfizer bị tổn thương do vaccine. “… nhưng Pfizer chỉ theo dõi 32 người trong số này và có 28 trẻ sơ sinh đã tử vong. Tỷ lệ tử vong ở thai nhi ở đây là một con số gây sốc - 87,5%”.
Pfizer cũng đã ghi nhận hơn 158.000 trường hợp gặp những tác dụng phụ riêng biệt trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, thuộc 1290 nhóm tác dụng phụ khác nhau. Bản báo cáo này là một bản tóm tắt khổng lồ những tác phụ có thể xảy ra với chúng ta. Dưới đây là phần đầu của danh sách những tác dụng phụ bắt đầu bằng chữ A.
Tài liệu Pfizer Worldwide Safety (trang 30):
Nhóm của Wolf lưu ý rằng “Nếu Pfizer đăng một quảng cáo trên TV về vcin CVDvà liệt kê 158.893 tác dụng phụ được báo cáo trong 12 tuần đầu tiên, thì phát thanh viên sẽ phải đọc liên tục hơn 80 giờ mới xong”.
Ngay cả danh sách dài dằng dặc này cũng chưa đầy đủ vì Pfizer đã không thể ghi nhận được kết quả của 22 phần trăm số người tham gia thử nghiệm. Pfizer liệt kê rằng có 11.361 bệnh nhân “không hồi phục” tại thời điểm họ công bố báo cáo. Như vậy có 51,6 % trong nhóm thử nghiệm “không hồi phục” sau khi gặp những tác dụng phụ này.
4. Không có chất nào ‘chỉ ở trong vai hoặc cánh tay’ khi tiêm vào cơ thể
Chúng tôi đều biết Pfizer đã thừa nhận rằng có sự lây truyền protein gai từ người này sang người khác qua tiếp xúc da và hơi thở. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nhiều người trong môi trường cộng đồng.
Tác dụng phụ của vaccine trên những bà mẹ đang cho con bú và trẻ sơ sinh gồm có nôn mửa, sốt, phát ban, liệt một phần, sữa mẹ chuyển màu xanh lam và nhiều tác dụng phụ khác.
Theo nguyên tắc vật lý về sự phân tán và khuếch tán khi tiêm một chất lỏng vào cơ thể có 50% là nước của chúng ta và những nguyên tắc sinh lý cơ bản về sự lưu thông của máu và bạch huyết, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi vaccine có thể lây truyền qua sữa mẹ: Như vậy, khi tiêm một chất lỏng vào cơ thể, chất này sẽ được khuếch tán khắp nơi.Đối với phương pháp vận chuyển thuốc bằng các hạt nano lipid (LNP), ngay từ giai đoạn mới bắt đầu nghiên cứu, chúng ta đã biết rằng những hạt này sẽ đi vào hệ tuần hoàn. Những người tin vào lập luận rằng một chất lỏng chỉ “ở trong cánh tay” khi tiêm vào cơ thể có lẽ chưa nắm được những kiến thức cơ bản về sinh học hoặc vật lý ở bậc trung học cơ sở.
Chắc chắn rằng công ty Pfizer đã biết điều này. Họ đã khuyến cáo những nam giới tham gia thử nghiệm tránh quan hệ tình dục với các phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và phải sử dụng bao cao su khi quan hệ.
Dưới đây là tổng quan về những tác động của các chất được vận chuyển bằng nanolipd trên cơ quan sinh sản của nam và nữ.
Wang R, Song B, và cộng sự. Tác dụng phụ tiềm ẩn trên hệ sinh sản của các hạt nano
6. Vô sinh nam và vcin CVD
Các chuyên gia nhận thấy rằng những thành phần của vaccine mRNA sẽ phân tán khắp cơ thể, đồng thời tích tụ trong tinh hoàn và nhiều cơ quan khác. Một tác dụng phụ cần lưu ý trong danh sách 1290 tác dụng phụ xảy ra sau khi tiêm vaccine Pfizer là sự xuất hiện của các “kháng thể kháng tinh trùng”.
Từ Pfizer Worldwide Safety:
Sau đó, một nghiên cứu của Israel đã xác nhận những tác động gây hại đối với tinh trùng, về cả số lượng và khả năng vận động khi tiêm vaccine Pfizer.
Từ “tạm thời” trong tiêu đề dễ gây hiểu nhầm vì các nhà nghiên cứu cho rằng tinh trùng sẽ hồi phục sau thời gian nghiên cứu kéo dài ba tháng, mặc dù họ đã kết thúc quá trình quan sát vào thời điểm đó. Nhưng họ không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào cho thấy tinh trùng sẽ phục hồi. Vì vậy, cho đến nay từ “tạm thời” này vẫn chưa được kiểm chứng.
Pfizer đã không kiểm tra độc tính trên hệ sinh sản của nam giới, cũng như khả năng di truyền những tác động bất lợi của vaccine ở những người nam đã tiêm vaccine qua tinh dịch cho thế hệ sau.
Có thể có người sẽ nghĩ rằng tác động trên hệ sinh sản của nam giới đã được nghiên cứu trong thử nghiệm trên chuột của Pfizer. Tuy nhiên, khi thử nghiệm trên chuột, các nhà nghiên cứu chỉ tiêm vcine trên chuột cái và không tiêm trên chuột đực. Khi Pfizer tuyên bố rằng vcine không có độc tính trên cơ quan sinh sản của chuột đực, họ đã bỏ qua một thông tin rằng: chuột đực hoàn toàn không được tiêm vaccine trong thử nghiệm này.
Pfizer đã yêu cầu những nam giới tham gia thử nghiệm tránh giao hợp hoặc phải sử dụng bao cao su khi giao hợp.
Những tác hại của hạt nano lipid trên cơ quan và khả năng sinh sản của nam giới đã được phát hiện từ nhiều năm trước. Một nghiên cứu vào năm 2018 cho thấy hệ cơ quan này rất dễ chịu những tác động gây hại của các hạt nano lipid. Bên cạnh việc giảm số lượng và khả năng di chuyển của tinh trùng, các nhà nghiên cứu còn phát hiện rằng “tinh trùng có hình dạng bất thường, móc ở phần đầu của tinh trùng mất hoặc nhỏ đi, phần đầu tinh trùng không tròn hoặc dài ra là những bất thường thường gặp nhất”.
Hơn nữa, các hóa chất độc hại như phthalates và những chất gây rối loạn nội tiết khác đã tồn tại trong môi trường từ trước khi có vaccine COVID. Những chất này cũng góp phần làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng trong nửa thế kỷ qua. Từ năm 1972, mỗi năm số lượng tinh trùng của nam giới đã giảm trung bình khoảng 1%.
Tuy nhiên, vcin CVD đã khiến quá trình sinh tinh của nam giới trở nên ít hơn. Có một vấn đề chính là hầu hết các tế bào sinh sản của nam giới, gồm cả ống sinh tinh và tinh trùng, đều biểu hiện thụ thể ACE-2. Đây là loại thụ thể mà protein gai sử dụng để xâm nhập vào tế bào của chúng ta. Tương tự với hiện tượng xảy ra ở các mạch máu trên khắp cơ thể, khi protein gai gắn vào các thụ thể ACE-2 sẽ không chỉ làm tổn thương tinh trùng mà còn ảnh hưởng đến cả hàng rào máu - tinh hoàn và góp phần gây ra tình trạng viêm tinh hoàn.
Vào ngày thứ 150, kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ tinh trùng dưới mức bình thường 15,9%, và thấp hơn cả nồng độ tinh trùng trong khoảng thời gian từ ngày 75 đến ngày 120 và chưa có dấu hiệu phục hồi vào giai đoạn cuối của nghiên cứu.
7. Vô sinh nữ và vcin CVD
Từ lâu Tổ chức Y tế Thế giới đã quan tâm đến loại “vaccine chống sinh sản” và “vaccine điều hòa khả năng sinh sản”. Điều này thể hiện trong các báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới từ năm 1992. “Chorionic gonadotropin là kháng nguyên duy nhất đáp ứng các tiêu chí của một loại vaccine tránh thai lý tưởng”.
Trên hệ thống giám sát V-safe, CDC nhận thấy rằng tỷ lệ thai nhi tử vong tăng cao ở những phụ nữ mang thai đã tiêm vcin CVD đến mức có thể so sánh tỷ lệ làm sảy thai của “những viên thuốc tránh thai vào buổi sáng”, tức là tỷ lệ sảy thai ở trong khoảng từ 80% đến 90%. Con số này có thể so sánh với kết quả do nhóm Naomi Wolf/Daily Clout đã phát hiện trước đó: 87,5%, như đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, dữ liệu V-Safe này đã được công bố quá sớm và chưa đánh giá đầy đủ về các trường hợp mang thai vì những phụ nữ này vẫn đang ở hai tam cá nguyệt đầu tiên.
Nghiên cứu này đánh giá nhóm đối tượng phụ nữ mang thai trong nửa sau của thai kỳ (20 tuần cuối). Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn nhiều thiếu sót do thiếu dữ liệu.
Sảy thai là phản ứng phụ thuộc vào liều vaccine. Vaccine Pfizer có liều 30mcg và vaccine Moderna có liều 100mcg. Trong một cuộc họp của ủy ban các chuyên gia của CDC (ACIP) vào tháng 10 năm 2022, dữ liệu dưới đây đã được công bố:
Có 12.751 phụ nữ tiêm vaccine Pfizer và 8.365 phụ nữ tiêm vaccine Moderna. Trong đó có 422 phụ nữ tiêm vaccine Pfizer, chiếm tỷ lệ 3% tổng số phụ nữ tiêm vaccine Pfizer, bị sảy thai (sảy thai trước 20 tuần) và có 395 phụ nữ tiêm vaccine Moderna, chiếm 4,7% trong tổng số phụ nữ tiêm vaccine Moderna, bị sảy thai.
COVID-19 ở người mang thai và trẻ sơ sinh từ 0–5 tháng tuổi.
Vì vậy, điều này có nghĩa là nhóm sử dụng vaccine Moderna bị sảy thai nhiều hơn 42% so với nhóm sử dụng vaccine Pfizer. Sự khác biệt lớn về tỷ lệ phần trăm trong nghiên cứu thuần tập quy mô lớn như thế này (với hàng nghìn người tham gia) chứng minh mối quan hệ giữa liều lượng vcin CVD mRNA và việc sảy thai. Nguy cơ sảy thai sẽ cao hơn khi sử dụng liều vaccine cao hơn. Phản ứng phụ thuộc liều lượng này cũng là một trong những tiêu chí của Bradford Hill dùng để đánh giá mối quan hệ nguyên nhân - kết quả.
Những tài liệu mà công ty Pfizer tìm cách che giấu trong 75 năm qua đã bị buộc phải công bố theo lệnh của tòa án, tiết lộ 1.290 loại tác dụng phụ và tổng số 158.000 tác dụng phụ, như đã trình bày ở trên.
Tài liệu này cũng đã tiết lộ rằng Pfizer đã loại trừ 21 nhóm người khỏi các thử nghiệm, trong đó bao gồm cả “phụ nữ mang thai hoặc cho con bú”.
Theo yêu cầu của quy trình nghiên cứu Độc tính đối với sự phát triển và sinh sản, vaccine đã được thử nghiệm trên 44 con chuột mang thai trong thời gian hơn 6 tuần, nhưng chúng chưa được thử nghiệm trên phụ nữ mang thai. Kết quả cho thấy chưa phát hiện được tác động gây bệnh khi nghiên cứu trên chuột.
Tuy nhiên, 9 trong số 10 tác giả của nghiên cứu đang làm việc hoặc có cổ phần của các công ty Pfizer hoặc BioNTech. Điều này được thừa nhận trong bản một dòng nhỏ ở cuối bài báo. Như vậy, một nghiên cứu có nhiều mâu thuẫn thực hiện trên 44 con chuột, với thời gian nghiên cứu hơn 6 tuần, là cơ sở duy nhất để các chuyên gia sản khoa khuyến khích phụ nữ mang thai tiêm vaccine.
Báo cáo của Pfizer về những phụ nữ mang thai sau khi tiêm vaccine cho thấy có 413 phụ nữ mang thai, trong đó 270 trường hợp được đánh giá là có tác dụng phụ nghiêm trọng và 146 trường hợp có tác dụng phụ không nghiêm trọng. Các trường hợp nghiêm trọng gồm có “sảy thai tự nhiên (23), chờ kết quả (5), sinh non và tử vong sơ sinh (2), sảy thai tự nhiên trong tử cung (2), sảy thai tự nhiên và tử vong sơ sinh (1) và kết quả bình thường (1). 238 trường hợp mang thai chưa ghi nhận kết quả”. Một vấn đề với thử nghiệm chỉ diễn ra trong thời gian ngắn 12 tuần và gần như tất cả những trường hợp mang thai mới này đều ở trong giai đoạn đầu của thai kỳ, ba tháng đầu tiên khi kết thúc thử nghiệm.
Sau khi kiểm tra và so sánh các trường hợp sảy thai của nhiều loại vaccine khác nhau theo thời gian, nhóm nghiên cứu Daily Clout đã xác định rằng:
“Nếu đang mang thai, khả năng sảy thai của bạn sẽ cao hơn khi tiêm vaccine COVID-19 so với những loại vaccine sởi, quai bị, cúm, uốn ván hoặc nhiều loại vaccine khác”.
Họ phát hiện rằng trên Hệ thống báo cáo tác dụng phụ của vaccine (VAERS) của chính phủ Hoa Kỳ, tính đến tháng 3 năm 2022, tổng cộng có 4.693 người đã bị sảy thai trong suốt lịch sử 30 năm của VAERS. Trong đó, có 4.505 người trong số này chỉ tiêm một loại vaccine và có 3.430 người đã tiêm vaci COVID. Trong 3.430 người, có 16 người đã tiêm một loại vaccine khác gần thời điểm này. Như vậy, có 3.430 – 16 = 3.414 ca sảy thai sau khi tiêm vaci COVID.
Hãy so sánh con số này với 4.505 trường hợp sảy thai của tất cả các loại vaccine đơn lẻ khác trong lịch sử 30 năm của VAERS: 3.414 / 4.505 = 76%. Như vậy 76% tổng số trường hợp sảy thai được báo cáo cho VAERS xảy ra trong một thời gian ngắn vcin CVD được đưa vào sử dụng, từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 3 năm 2022.
Ít nhất kể từ năm 2010, người ta đã biết rằng các hạt nano có thể gây nguy hiểm cho buồng trứng và khả năng sinh sản nói chung, đồng thời những hạt này còn có hiện tượng tích tụ sinh học.
Đối với protein gai, sẽ không có gì ngạc nhiên khi thụ thể ACE-2 là cánh cổng giúp protein gai tiếp cận các tế bào buồng trứng, đặc biệt là các tế bào hạt và các tế bào cumulus. Đó là những tế bào có chức năng hỗ trợ sự phát triển của tế bào trứng.
7. Dị tật bẩm sinh
Hệ thống cơ sở dữ liệu dịch tễ học y tế quốc phòng Hoa Kỳ (DMED) là cơ sở dữ liệu thống kê sức khỏe lớn nhất của các quân nhân trẻ, khỏe và có cơ thể cân đối. Nhưng tình trạng sức khỏe của những quân nhân này này đã thay đổi từ khi họ buộc phải tiêm vcin CVDnếu không sẽ phải giải ngũ một cách nhục nhã và mất nhiều quyền lợi. Rất ít trường hợp được miễn tiêm vaccine vì lý do tôn giáo.
Cơ sở dữ liệu DMED cho thấy khi so sánh năm 2021 và năm 2020, tỷ lệ vô sinh nữ đã tăng 419%, tỷ lệ vô sinh nam tăng 320% và tỷ lệ dị tật bẩm sinh tăng 87%. Báo cáo cho thấy số trường hợp trung bình hàng năm là 10.906 trường hợp trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. Thế nhưng sau đó, chỉ trong một phần của năm 2021, chưa tính đến cả năm, đã có 18.951 trường hợp. Như vậy, chỉ trong thời gian này, số trường hợp này đã tăng 74% so với số lượng trung bình trong giai đoạn 2016 - 2020.
Phòng bệnh sẽ luôn dễ dàng hơn chữa bệnh. Tránh những yếu tố có thể gây độc như hạt nano lipid và đặc biệt là tránh những chất kích thích tạo ra protein gai như vaccine mRNA sẽ là bước cần làm đầu tiên. Chúng ta hãy hy vọng rằng trong những năm tới, cuộc khủng hoảng sinh sản ở cả nam giới và nữ giới sẽ được đảo ngược. Nhưng điều này cũng đòi những bước hành động của chúng ta.
Đăng lại từ bản tin trực tuyến của Colleen Huber.
(Colleen Huber: Tác giả của những cuốn sách được bán trên Amazon: “Sự thất bại của COVID”, “Tuyên ngôn cho bệnh nhân ung thư” và “Chọn thực phẩm của bạn như thể cuộc sống của bạn phụ thuộc vào chúng”. Bác sĩ sử dụng phương pháp điều trị tự nhiên (NMD) với 15 năm kinh nghiệm).
1. Những con số thống kê quan trọng - Dữ liệu chưa được công bố...
Kể từ lúc bắt đầu đại dịch COVID-19, nhiều số liệu thống kê quan trọng của các chính phủ trên khắp thế giới đã trở nên khó tiếp cận hơn. Dữ liệu không đầy đủ sẽ khiến chúng ta khó có thể phân tích cũng như hiểu được tình hình thực tế.
Ví dụ: tại thời điểm công bố bài viết này, Massachusetts, New York, Illinois và Washington là bốn trong số những tiểu bang của Hoa Kỳ vẫn chưa cập nhật dữ liệu về số ca sinh từ năm 2019 hoặc năm 2020.
2. Mười chín quốc gia châu Âu
Đến tháng 8 năm 2022, Raimond Hagemann, Ulf Lorré và bác sĩ Hans-Joachim Kremer đã tổng hợp dữ liệu về tình trạng thay đổi tỷ lệ sinh ở 19 quốc gia châu Âu và đưa ra một bản báo cáo rất quan trọng. Những quốc gia này có điểm uốn giảm tỷ lệ sinh giống nhau xuất hiện vào cuối năm 2021.
Đó là thời điểm 9 tháng kể từ lúc vcin được sử dụng nhiều nhất. Đức, Áo, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Latvia, Litva, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Romania và Slovenia cùng với Iceland, Bắc Ireland, Montenegro, Serbia đều có hiện tượng này. Điều này cho thấy số ca sinh đã giảm mạnh vào thời điểm này.
Dữ liệu của Đan Mạch trong nghiên cứu của R Hagemann, U Lorré và cộng sự (trang 31)
Biểu đồ tương ứng của từng quốc gia trong số 19 quốc gia này có một điểm giống nhau: mức tiêu thụ vcin CVD cao nhất là vào mùa xuân năm 2021, sau đó là tỷ lệ sinh giảm đã giảm mạnh vào thời điểm 9 tháng sau đó.
19 quốc gia trong nghiên cứu đều có số ca sinh giảm nhanh trong năm 2022 vào thời điểm này. Lưu ý rằng giá trị p trong bảng cho thấy sự liên kết về thời gian của hai sự kiện. Đặc điểm này đáp ứng tiêu chí tạm thời của Bradford Hill khi xét về nguyên nhân vô sinh. Sự tương quan giữa thời điểm sử dụng nhiều vcin CVD vào mùa xuân năm 2021 và hiện tượng giảm mạnh tỷ lệ 9 tháng sau đó không phải là ngẫu nhiên.
Thụy Điển
Chuyên gia phân tích dữ liệu Gato Malo lưu ý rằng nhiều quốc gia đã không công bố những số liệu thống kê quan trọng. Nếu chỉ với những thông tin không rõ ràng như vậy, chúng ta sẽ khó có thể đánh giá được toàn diện tình hình thực tế.
Ví dụ như ở trường hợp của Thụy Điển, khi đánh giá sự thay đổi số ca sinh hàng tháng, Gato Malo nhận thấy rằng tỷ lệ sinh bắt đầu giảm mạnh từ tháng 11, tháng 12 năm 2021. Điều này tương quan chặt chẽ với tỷ lệ người không tiêm vcin 9 tháng trước đó. Kết quả này cũng tương tự với phát hiện của R Hagemann, U Lorré và các cộng sự. Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ sinh của Thụy Điển vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi sau khi xuất hiện sự suy giảm như vậy. (data scb.se, owid) boriquagato.substack.com
Vương quốc Anh
Cùng thời điểm này, chúng ta cũng có thể nhận thấy hiện tượng giảm tỷ lệ sinh ở Vương quốc Anh. Từ tháng 12 năm 2021, số phụ nữ sinh con không còn ở mức 40.000 mà giảm xuống chỉ còn 30.000, đồng thời giữ nguyên ở con số này. Hãy xem cột “Số phụ nữ sinh con”.
Dữ liệu từ Cơ quan An ninh Y tế của Vương quốc Anh (trang 18):
Khi so sánh với mức giảm hàng năm, chúng ta có thể tính được mức giảm trung bình từ hai quý đầu của năm 2021 so với hai quý đầu của năm 2022, trong đó b là số lần sinh: (Σ b1, 2021…b6, 2021) – (Σ b1, 2022…b6, 2022) = 256,785 – 227,302 = 29,483. Như vậy mức giảm hàng tháng số ca sinh ở Vương quốc Anh là 4.913 ca sinh. Tương tự như Thụy Điển, điểm uốn trên đồ thị của Anh cho thấy sự suy giảm tỷ lệ sinh xảy ra từ 9 – 11 tháng sau thời điểm sử dụng nhiều vaccine nhất.
Theo Đại học Johns Hopkins và trang Our World In Data, thời điểm sử dụng vaccine nhiều nhất ở Anh là vào quý đầu tiên của năm 2021:
Thụy Sĩ
Dữ liệu cho thấy Thụy Sĩ có sự suy giảm tỷ lệ sinh mạnh nhất trong vòng 150 năm, nhiều hơn cả sự suy giảm trong hai cuộc Chiến tranh thế giới, cuộc Đại suy thoái hoặc thậm chí nhiều hơn cả giai đoạn thuốc tránh thai được đưa vào sử dụng rộng rãi.
3. Tại sao lại có sự suy giảm này?
Naomi Wolf đã phát hiện được nhiều báo cáo về hiện tượng bất thường chu kỳ kinh nguyệt ở những phụ nữ đã tiêm vcin CVD và ở cả những phụ nữ đã tiếp xúc với người tiêm vcine. Cô Wolf là người đầu tiên công khai thảo luận về vấn đề này nên trong quá trình thu thập những dữ liệu về những phụ nữ có hiện tượng thay đổi chu kỳ kinh nguyệt, cô đã phải nhận nhiều chỉ trích và bị kiểm duyệt trên mạng xã hội.
Theo lệnh của tòa án, tổ chức Daily Clout của cô Wolf đã tổ chức một nhóm gồm hơn 3.000 nhà nghiên cứu trong đó bao gồm cả bác sĩ Pierre Kory. Nhóm của cô tiến hành phân tích các tài liệu của Pfizer/FDA [Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ] về kết quả của thử nghiệm lâm sàng quy mô 44.000 người của vcin Pfizer. Nhóm Daily Clout đã tóm tắt những phát hiện của họ trong một cuốn sách có tên là: “Báo cáo phân tích tài liệu Pfizer”.
Nhóm nghiên cứu báo cáo những phát hiện của Pfizer về các tổn thương nghiêm trọng trong nhóm 22.000 người tiêm vaccine Pfizer, theo “Đại học Johns Hopkins và dữ liệu trên trang Our World in Data”.
Trong cuốn sách này, nhóm Daily Clout đã bàn luận về tác động của vcin CVDđối với khả năng sinh sản của nam giới và nữ giới. Khi phân tích dữ liệu do chính Pfizer báo cáo, họ phát hiện ra rằng có 270 phụ nữ mang thai trong cuộc thử nghiệm của Pfizer bị tổn thương do vaccine. “… nhưng Pfizer chỉ theo dõi 32 người trong số này và có 28 trẻ sơ sinh đã tử vong. Tỷ lệ tử vong ở thai nhi ở đây là một con số gây sốc - 87,5%”.
Pfizer cũng đã ghi nhận hơn 158.000 trường hợp gặp những tác dụng phụ riêng biệt trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, thuộc 1290 nhóm tác dụng phụ khác nhau. Bản báo cáo này là một bản tóm tắt khổng lồ những tác phụ có thể xảy ra với chúng ta. Dưới đây là phần đầu của danh sách những tác dụng phụ bắt đầu bằng chữ A.
Tài liệu Pfizer Worldwide Safety (trang 30):
Nhóm của Wolf lưu ý rằng “Nếu Pfizer đăng một quảng cáo trên TV về vcin CVDvà liệt kê 158.893 tác dụng phụ được báo cáo trong 12 tuần đầu tiên, thì phát thanh viên sẽ phải đọc liên tục hơn 80 giờ mới xong”.
Ngay cả danh sách dài dằng dặc này cũng chưa đầy đủ vì Pfizer đã không thể ghi nhận được kết quả của 22 phần trăm số người tham gia thử nghiệm. Pfizer liệt kê rằng có 11.361 bệnh nhân “không hồi phục” tại thời điểm họ công bố báo cáo. Như vậy có 51,6 % trong nhóm thử nghiệm “không hồi phục” sau khi gặp những tác dụng phụ này.
4. Không có chất nào ‘chỉ ở trong vai hoặc cánh tay’ khi tiêm vào cơ thể
Chúng tôi đều biết Pfizer đã thừa nhận rằng có sự lây truyền protein gai từ người này sang người khác qua tiếp xúc da và hơi thở. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nhiều người trong môi trường cộng đồng.
Tác dụng phụ của vaccine trên những bà mẹ đang cho con bú và trẻ sơ sinh gồm có nôn mửa, sốt, phát ban, liệt một phần, sữa mẹ chuyển màu xanh lam và nhiều tác dụng phụ khác.
Theo nguyên tắc vật lý về sự phân tán và khuếch tán khi tiêm một chất lỏng vào cơ thể có 50% là nước của chúng ta và những nguyên tắc sinh lý cơ bản về sự lưu thông của máu và bạch huyết, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi vaccine có thể lây truyền qua sữa mẹ: Như vậy, khi tiêm một chất lỏng vào cơ thể, chất này sẽ được khuếch tán khắp nơi.Đối với phương pháp vận chuyển thuốc bằng các hạt nano lipid (LNP), ngay từ giai đoạn mới bắt đầu nghiên cứu, chúng ta đã biết rằng những hạt này sẽ đi vào hệ tuần hoàn. Những người tin vào lập luận rằng một chất lỏng chỉ “ở trong cánh tay” khi tiêm vào cơ thể có lẽ chưa nắm được những kiến thức cơ bản về sinh học hoặc vật lý ở bậc trung học cơ sở.
Chắc chắn rằng công ty Pfizer đã biết điều này. Họ đã khuyến cáo những nam giới tham gia thử nghiệm tránh quan hệ tình dục với các phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và phải sử dụng bao cao su khi quan hệ.
Dưới đây là tổng quan về những tác động của các chất được vận chuyển bằng nanolipd trên cơ quan sinh sản của nam và nữ.
Wang R, Song B, và cộng sự. Tác dụng phụ tiềm ẩn trên hệ sinh sản của các hạt nano
6. Vô sinh nam và vcin CVD
Các chuyên gia nhận thấy rằng những thành phần của vaccine mRNA sẽ phân tán khắp cơ thể, đồng thời tích tụ trong tinh hoàn và nhiều cơ quan khác. Một tác dụng phụ cần lưu ý trong danh sách 1290 tác dụng phụ xảy ra sau khi tiêm vaccine Pfizer là sự xuất hiện của các “kháng thể kháng tinh trùng”.
Từ Pfizer Worldwide Safety:
Sau đó, một nghiên cứu của Israel đã xác nhận những tác động gây hại đối với tinh trùng, về cả số lượng và khả năng vận động khi tiêm vaccine Pfizer.
Từ “tạm thời” trong tiêu đề dễ gây hiểu nhầm vì các nhà nghiên cứu cho rằng tinh trùng sẽ hồi phục sau thời gian nghiên cứu kéo dài ba tháng, mặc dù họ đã kết thúc quá trình quan sát vào thời điểm đó. Nhưng họ không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào cho thấy tinh trùng sẽ phục hồi. Vì vậy, cho đến nay từ “tạm thời” này vẫn chưa được kiểm chứng.
Pfizer đã không kiểm tra độc tính trên hệ sinh sản của nam giới, cũng như khả năng di truyền những tác động bất lợi của vaccine ở những người nam đã tiêm vaccine qua tinh dịch cho thế hệ sau.
Có thể có người sẽ nghĩ rằng tác động trên hệ sinh sản của nam giới đã được nghiên cứu trong thử nghiệm trên chuột của Pfizer. Tuy nhiên, khi thử nghiệm trên chuột, các nhà nghiên cứu chỉ tiêm vcine trên chuột cái và không tiêm trên chuột đực. Khi Pfizer tuyên bố rằng vcine không có độc tính trên cơ quan sinh sản của chuột đực, họ đã bỏ qua một thông tin rằng: chuột đực hoàn toàn không được tiêm vaccine trong thử nghiệm này.
Pfizer đã yêu cầu những nam giới tham gia thử nghiệm tránh giao hợp hoặc phải sử dụng bao cao su khi giao hợp.
Những tác hại của hạt nano lipid trên cơ quan và khả năng sinh sản của nam giới đã được phát hiện từ nhiều năm trước. Một nghiên cứu vào năm 2018 cho thấy hệ cơ quan này rất dễ chịu những tác động gây hại của các hạt nano lipid. Bên cạnh việc giảm số lượng và khả năng di chuyển của tinh trùng, các nhà nghiên cứu còn phát hiện rằng “tinh trùng có hình dạng bất thường, móc ở phần đầu của tinh trùng mất hoặc nhỏ đi, phần đầu tinh trùng không tròn hoặc dài ra là những bất thường thường gặp nhất”.
Hơn nữa, các hóa chất độc hại như phthalates và những chất gây rối loạn nội tiết khác đã tồn tại trong môi trường từ trước khi có vaccine COVID. Những chất này cũng góp phần làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng trong nửa thế kỷ qua. Từ năm 1972, mỗi năm số lượng tinh trùng của nam giới đã giảm trung bình khoảng 1%.
Tuy nhiên, vcin CVD đã khiến quá trình sinh tinh của nam giới trở nên ít hơn. Có một vấn đề chính là hầu hết các tế bào sinh sản của nam giới, gồm cả ống sinh tinh và tinh trùng, đều biểu hiện thụ thể ACE-2. Đây là loại thụ thể mà protein gai sử dụng để xâm nhập vào tế bào của chúng ta. Tương tự với hiện tượng xảy ra ở các mạch máu trên khắp cơ thể, khi protein gai gắn vào các thụ thể ACE-2 sẽ không chỉ làm tổn thương tinh trùng mà còn ảnh hưởng đến cả hàng rào máu - tinh hoàn và góp phần gây ra tình trạng viêm tinh hoàn.
Vào ngày thứ 150, kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ tinh trùng dưới mức bình thường 15,9%, và thấp hơn cả nồng độ tinh trùng trong khoảng thời gian từ ngày 75 đến ngày 120 và chưa có dấu hiệu phục hồi vào giai đoạn cuối của nghiên cứu.
7. Vô sinh nữ và vcin CVD
Từ lâu Tổ chức Y tế Thế giới đã quan tâm đến loại “vaccine chống sinh sản” và “vaccine điều hòa khả năng sinh sản”. Điều này thể hiện trong các báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới từ năm 1992. “Chorionic gonadotropin là kháng nguyên duy nhất đáp ứng các tiêu chí của một loại vaccine tránh thai lý tưởng”.
Trên hệ thống giám sát V-safe, CDC nhận thấy rằng tỷ lệ thai nhi tử vong tăng cao ở những phụ nữ mang thai đã tiêm vcin CVD đến mức có thể so sánh tỷ lệ làm sảy thai của “những viên thuốc tránh thai vào buổi sáng”, tức là tỷ lệ sảy thai ở trong khoảng từ 80% đến 90%. Con số này có thể so sánh với kết quả do nhóm Naomi Wolf/Daily Clout đã phát hiện trước đó: 87,5%, như đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, dữ liệu V-Safe này đã được công bố quá sớm và chưa đánh giá đầy đủ về các trường hợp mang thai vì những phụ nữ này vẫn đang ở hai tam cá nguyệt đầu tiên.
Nghiên cứu này đánh giá nhóm đối tượng phụ nữ mang thai trong nửa sau của thai kỳ (20 tuần cuối). Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn nhiều thiếu sót do thiếu dữ liệu.
Sảy thai là phản ứng phụ thuộc vào liều vaccine. Vaccine Pfizer có liều 30mcg và vaccine Moderna có liều 100mcg. Trong một cuộc họp của ủy ban các chuyên gia của CDC (ACIP) vào tháng 10 năm 2022, dữ liệu dưới đây đã được công bố:
Có 12.751 phụ nữ tiêm vaccine Pfizer và 8.365 phụ nữ tiêm vaccine Moderna. Trong đó có 422 phụ nữ tiêm vaccine Pfizer, chiếm tỷ lệ 3% tổng số phụ nữ tiêm vaccine Pfizer, bị sảy thai (sảy thai trước 20 tuần) và có 395 phụ nữ tiêm vaccine Moderna, chiếm 4,7% trong tổng số phụ nữ tiêm vaccine Moderna, bị sảy thai.
COVID-19 ở người mang thai và trẻ sơ sinh từ 0–5 tháng tuổi.
Vì vậy, điều này có nghĩa là nhóm sử dụng vaccine Moderna bị sảy thai nhiều hơn 42% so với nhóm sử dụng vaccine Pfizer. Sự khác biệt lớn về tỷ lệ phần trăm trong nghiên cứu thuần tập quy mô lớn như thế này (với hàng nghìn người tham gia) chứng minh mối quan hệ giữa liều lượng vcin CVD mRNA và việc sảy thai. Nguy cơ sảy thai sẽ cao hơn khi sử dụng liều vaccine cao hơn. Phản ứng phụ thuộc liều lượng này cũng là một trong những tiêu chí của Bradford Hill dùng để đánh giá mối quan hệ nguyên nhân - kết quả.
Những tài liệu mà công ty Pfizer tìm cách che giấu trong 75 năm qua đã bị buộc phải công bố theo lệnh của tòa án, tiết lộ 1.290 loại tác dụng phụ và tổng số 158.000 tác dụng phụ, như đã trình bày ở trên.
Tài liệu này cũng đã tiết lộ rằng Pfizer đã loại trừ 21 nhóm người khỏi các thử nghiệm, trong đó bao gồm cả “phụ nữ mang thai hoặc cho con bú”.
Theo yêu cầu của quy trình nghiên cứu Độc tính đối với sự phát triển và sinh sản, vaccine đã được thử nghiệm trên 44 con chuột mang thai trong thời gian hơn 6 tuần, nhưng chúng chưa được thử nghiệm trên phụ nữ mang thai. Kết quả cho thấy chưa phát hiện được tác động gây bệnh khi nghiên cứu trên chuột.
Tuy nhiên, 9 trong số 10 tác giả của nghiên cứu đang làm việc hoặc có cổ phần của các công ty Pfizer hoặc BioNTech. Điều này được thừa nhận trong bản một dòng nhỏ ở cuối bài báo. Như vậy, một nghiên cứu có nhiều mâu thuẫn thực hiện trên 44 con chuột, với thời gian nghiên cứu hơn 6 tuần, là cơ sở duy nhất để các chuyên gia sản khoa khuyến khích phụ nữ mang thai tiêm vaccine.
Báo cáo của Pfizer về những phụ nữ mang thai sau khi tiêm vaccine cho thấy có 413 phụ nữ mang thai, trong đó 270 trường hợp được đánh giá là có tác dụng phụ nghiêm trọng và 146 trường hợp có tác dụng phụ không nghiêm trọng. Các trường hợp nghiêm trọng gồm có “sảy thai tự nhiên (23), chờ kết quả (5), sinh non và tử vong sơ sinh (2), sảy thai tự nhiên trong tử cung (2), sảy thai tự nhiên và tử vong sơ sinh (1) và kết quả bình thường (1). 238 trường hợp mang thai chưa ghi nhận kết quả”. Một vấn đề với thử nghiệm chỉ diễn ra trong thời gian ngắn 12 tuần và gần như tất cả những trường hợp mang thai mới này đều ở trong giai đoạn đầu của thai kỳ, ba tháng đầu tiên khi kết thúc thử nghiệm.
Sau khi kiểm tra và so sánh các trường hợp sảy thai của nhiều loại vaccine khác nhau theo thời gian, nhóm nghiên cứu Daily Clout đã xác định rằng:
“Nếu đang mang thai, khả năng sảy thai của bạn sẽ cao hơn khi tiêm vaccine COVID-19 so với những loại vaccine sởi, quai bị, cúm, uốn ván hoặc nhiều loại vaccine khác”.
Họ phát hiện rằng trên Hệ thống báo cáo tác dụng phụ của vaccine (VAERS) của chính phủ Hoa Kỳ, tính đến tháng 3 năm 2022, tổng cộng có 4.693 người đã bị sảy thai trong suốt lịch sử 30 năm của VAERS. Trong đó, có 4.505 người trong số này chỉ tiêm một loại vaccine và có 3.430 người đã tiêm vaci COVID. Trong 3.430 người, có 16 người đã tiêm một loại vaccine khác gần thời điểm này. Như vậy, có 3.430 – 16 = 3.414 ca sảy thai sau khi tiêm vaci COVID.
Hãy so sánh con số này với 4.505 trường hợp sảy thai của tất cả các loại vaccine đơn lẻ khác trong lịch sử 30 năm của VAERS: 3.414 / 4.505 = 76%. Như vậy 76% tổng số trường hợp sảy thai được báo cáo cho VAERS xảy ra trong một thời gian ngắn vcin CVD được đưa vào sử dụng, từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 3 năm 2022.
Ít nhất kể từ năm 2010, người ta đã biết rằng các hạt nano có thể gây nguy hiểm cho buồng trứng và khả năng sinh sản nói chung, đồng thời những hạt này còn có hiện tượng tích tụ sinh học.
Đối với protein gai, sẽ không có gì ngạc nhiên khi thụ thể ACE-2 là cánh cổng giúp protein gai tiếp cận các tế bào buồng trứng, đặc biệt là các tế bào hạt và các tế bào cumulus. Đó là những tế bào có chức năng hỗ trợ sự phát triển của tế bào trứng.
7. Dị tật bẩm sinh
Hệ thống cơ sở dữ liệu dịch tễ học y tế quốc phòng Hoa Kỳ (DMED) là cơ sở dữ liệu thống kê sức khỏe lớn nhất của các quân nhân trẻ, khỏe và có cơ thể cân đối. Nhưng tình trạng sức khỏe của những quân nhân này này đã thay đổi từ khi họ buộc phải tiêm vcin CVDnếu không sẽ phải giải ngũ một cách nhục nhã và mất nhiều quyền lợi. Rất ít trường hợp được miễn tiêm vaccine vì lý do tôn giáo.
Cơ sở dữ liệu DMED cho thấy khi so sánh năm 2021 và năm 2020, tỷ lệ vô sinh nữ đã tăng 419%, tỷ lệ vô sinh nam tăng 320% và tỷ lệ dị tật bẩm sinh tăng 87%. Báo cáo cho thấy số trường hợp trung bình hàng năm là 10.906 trường hợp trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. Thế nhưng sau đó, chỉ trong một phần của năm 2021, chưa tính đến cả năm, đã có 18.951 trường hợp. Như vậy, chỉ trong thời gian này, số trường hợp này đã tăng 74% so với số lượng trung bình trong giai đoạn 2016 - 2020.
Phòng bệnh sẽ luôn dễ dàng hơn chữa bệnh. Tránh những yếu tố có thể gây độc như hạt nano lipid và đặc biệt là tránh những chất kích thích tạo ra protein gai như vaccine mRNA sẽ là bước cần làm đầu tiên. Chúng ta hãy hy vọng rằng trong những năm tới, cuộc khủng hoảng sinh sản ở cả nam giới và nữ giới sẽ được đảo ngược. Nhưng điều này cũng đòi những bước hành động của chúng ta.
Đăng lại từ bản tin trực tuyến của Colleen Huber.
(Colleen Huber: Tác giả của những cuốn sách được bán trên Amazon: “Sự thất bại của COVID”, “Tuyên ngôn cho bệnh nhân ung thư” và “Chọn thực phẩm của bạn như thể cuộc sống của bạn phụ thuộc vào chúng”. Bác sĩ sử dụng phương pháp điều trị tự nhiên (NMD) với 15 năm kinh nghiệm).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét