Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Nam Phương hoàng hậu

Nam Phương hoàng hậu
Nam Phương hoàng hậu là vị hoàng hậu cuối cùng của lịch sử Việt Nam. Hoàng đế Bảo Đại vô cùng trân quý, yêu thương người con gái vừa xinh đẹp, đoan trang, vừa thông minh, nhân hậu này, nên đã ban cho vị hoàng hậu của mình danh xưng cao quý: Nam Phương hoàng hậu – hương thơm của miền Nam. Và vị hoàng hậu cuối cùng đã sống một cuộc đời lặng lẽ tỏa hương như thế...

Nam Phương hoàng hậu: Từ tiểu thư đại phú hào lừng danh phương Nam đến chính cung hoàng hậu cao quý 

Nam Phương hoàng hậu tên thật là Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ra tại Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ. Ông ngoại của bà là Lê Phát Đạt, tục gọi là Huyện Sỹ ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX.

1. Ông ngoại là đại hào phú trứ danh Sài Gòn

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Sài Gòn nổi lên tứ đại hào phú lẫy lừng: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định” - họ là những người giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và xứ Đông Dương.

Những đại hào phú này giàu có đáng kinh ngạc, mà “Nhất Sỹ” – ông Huyện Sỹ, chính là ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, là người giàu có bậc nhất.

Ông Huyện Sỹ được các tu sĩ người Pháp đưa sang du học ở Malaysia. Ông được học các ngôn ngữ như: tiếng La Tinh, tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Quốc ngữ. Khi về nước, ông đổi tên thành Lê Phát Đạt, và được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi từ năm 1880 thì làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.

Từ đây, ông nhanh chóng trở thành người giàu có bậc nhất đất Sài Gòn. Năm 1904, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể, ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chính thức, mà không mấy ai dám vì sợ bị ghép tội theo Pháp. Thế rồi, ông Lê Phát Đạt bị nài ép mua, ông bất đắc dĩ phải chạy tiền mua liều. Nào ngờ vận đỏ, ruộng trúng mùa liên tiếp mấy năm liền. Ông trở nên giàu có nhanh chóng.
Nhà thờ Huyện Sỹ. (Ảnh: Manhhai, Flickr)

Mặc dù giàu có như vậy, nhưng trong nhà ông có treo câu đối răn mình:

“Cần dữ kiệm, trị gia thượng sách

Nhẫn nhi hòa, xử thế lương đồ”

Ngày nay, nếu đi bằng xe máy từ nhà thờ Huyện Sỹ đến nhà thờ Hạnh Thông Tây phải mất gần một tiếng, đủ thấy rằng vùng đất của ông Huyện Sỹ mênh mông chừng nào. Không chỉ có thế, các con của ông Huyện Sỹ, kể cả bà Lê Thị Bính – mẹ của Nam Phương hoàng hậu - đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai.

Riêng trưởng nam của ông Huyện Sỹ là ông Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương. Ông Lê Phát An là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là “hoàng thân, quốc thích” được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình.

Theo Saigonxua.org, mức độ giàu có của gia đình Huyện Sỹ được cho là lớn hơn nhiều lần so với vua Bảo Đại. Vậy nên, mới có câu chuyện là vào năm 1934, nhân dịp gả cô cháu gái Nguyễn Hữu Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu về Huế làm Hoàng hậu, người cậu Lê Phát An đã tặng cho cháu gái Nguyễn Hữu Thị Lan 1 triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn (bấy giờ giá vàng khoảng 50 đồng/lượng, nên món quà này tương đương 20.000 lượng vàng).

Gia đình ông Nguyễn Hữu Hào, cha của Nam Phương hoàng hậu, rể của Huyện Sỹ - cũng là bậc đại phú hào vô cùng giàu có. Vậy nên, bà Nguyễn Hữu Thị Lan từ nhỏ đã “sống trong tơ lụa”.

2. Từ đại tiểu thư đến chính cung hoàng hậu

Bà Nguyễn Hữu Thị Lan cùng người chị của mình tức Agnès Nguyễn Hữu Hào sống trong nhung lụa từ bé, tuổi xuân êm đềm.

Vẻ đẹp thanh lịch, đằm thắm của Nam Phương Hoàng hậu thời trẻ (Ảnh: tổng hợp)

Năm 12 tuổi, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sang Pháp theo học tại trường nữ sinh danh tiếng Couvent des Oiseaux, Paris. Tháng 9 năm 1932, sau khi thi đậu tú tài toàn phần (tương đương với tốt nghiệp trung học), bà về nước và gặp gỡ vua Bảo Đại lần đầu tiên trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace – Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương và viên Đốc lý thành phố sắp đặt.

Xuất thân từ một gia đình giàu có ở miền Nam, lại được thừa hưởng nền giáo dục phương Tây và theo học tại một trường nữ nổi tiếng tại Pháp, bà luôn có một cái nhìn thông thoáng và bao dung. Nhan sắc và trí tuệ của bà vào thời ấy có lẽ ít người sánh kịp.

Trong cuốn Con rồng Việt Nam, vua Bảo Đại chia sẻ :

“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của hoàng thành Huế...”.

Dù gia thế giàu có, nhưng việc hoàng đế Bảo Đại chọn một phụ nữ theo đạo Công giáo làm chính thất bị phản đối từ nhiều phía. Để dẹp yên bất đồng từ triều đình, Hoàng đế Bảo Đại thẳng thắn: “Trẫm cưới vợ cho trẫm chứ đâu phải cưới cho Triều đình”. Mặt khác, ông cũng cho biết rằng Hoàng hậu tương lại sẽ tuân thủ đúng tập tục lễ nghi, giữ trọn lề thói của một nàng dâu nước Nam, để làm an lòng Từ Cung Thái hậu.

Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 năm 1934 ở Huế. Ngay ngày hôm sau, lễ tấn phong hoàng hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Thái Hòa. Hoàng đế phong bà Nguyễn Hữu Thị Lan tước vị Nam Phương hoàng hậu.

Lễ tấn phong hoàng hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Thái Hòa. Hoàng đế phong bà Nguyễn Hữu Thị Lan tước vị Nam Phương hoàng hậu. (Ảnh: tổng hợp)

Vì tình yêu say đắm, cùng với sự yêu quý, trân trọng dành cho Nam Phương hoàng hậu, vua Bảo Đại đã vì bà mà dẹp bỏ tam cung lục viện, cam kết cuộc sống hôn nhân một vợ một chồng chung thuỷ.

3. Nhân cách cao quý của một vị Hoàng hậu

Nam Phương hoàng hậu cùng vua Bảo Đại có tất cả năm người con. Công việc hàng ngày của hoàng hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng, bà cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên Đế, và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên Cung và Từ Cung Hoàng thái hậu.

Hoàng hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Hoàng hậu nổi tiếng là người nhân từ, có lối sống bao dung, rộng lượng.

Thế nhưng, cuộc đời của vị hoàng hậu cuối cùng này cũng gặp nhiều sóng gió như chính triều đại mà chồng bà - Hoàng đế Bảo Đại - cầm quyền.

Hoàng hậu nổi tiếng là người nhân từ, có lối sống bao dung, rộng lượng. Ảnh Nam Phương hoàng hậu bên các hoàng tử, công chúa (Ảnh tổng hợp)

Sau khi thoái vị vào năm 1945, năm 1946, cựu Hoàng Bảo Đại tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh (Trung Quốc), vì tình hình chính trị rối ren, nên khi công việc kết thúc, cựu hoàng đã lưu lại Hong Kong một thời gian.

Lúc này, bà vũ nữ Lý Lệ Hà - một trong những giai nhân xuất hiện trong cuộc đời cựu hoàng sau thời điểm ông thoái vị - đã sang Hong Kong tìm gặp ông.

Bà Nam Phương biết chuyện, song đứng trước nhiều biến cố, bà vẫn giữ được phong cách hành xử tinh tế, nhân cách cao thượng, cùng tình yêu thương chồng sâu sắc, đặc biệt thể hiện qua lá thư mà bà gửi cho “người thứ 3”.

Nội dung lá thư như sau: "Em Lý Lệ Hà thân quý. Chị ở xa đức Cựu hoàng hàng mấy vạn dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng hết sức chăm sóc Cựu hoàng ở Hong Kong. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi Cựu hoàng, ta còn gặp lại nhau. Đức Từ cung Thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị Nam Phương".

Không một lời mắng nhiếc, hờn giận hay trách móc, cũng không có cả những ngôn từ xúc phạm hay nhục mạ. Từng lời của bà Nam Phương đều rất chừng mực, nhẹ nhàng, từ tốn mà thanh tao. Không rõ bức thư đã ảnh hưởng đến tâm lý của Lý Lệ Hà đến đâu nhưng nhiều năm sau đó, bà ấy đã gìn giữ bức thư như một kỷ vật rất quan trọng của cuộc đời.

4. Năm tháng cuối đời của cựu hoàng hậu tại Pháp

Tháng 12/1946, tình hình chính trị và quân sự giữa Việt và Pháp rất căng thẳng. Cựu hoàng Bảo Đại đã sang Hong Kong, bà Nam Phương cùng 5 con sống trong cung An Định. Bà cảm thấy rất hoang mang và tuyệt vọng. Bà chọn giải pháp đưa các con vào nương nhờ nhà thờ dòng Chúa cứu thế, nơi thuộc quyền quản lý của các linh mục Canada. Cuộc sống ở đây khá kham khổ so với sinh hoạt trước kia của họ.

Năm 1947, bà cùng các con cuối cùng đã lên đường sang Pháp. Bà Nam Phương vẫn có cuộc sống sung túc với khối tài sản đồ sộ trên khắp nước Pháp và các lãnh địa Pháp, như các lâu đài lớn ở Cannes, Limousin, Paris… nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo…

Thời gian đầu, mẹ con cựu hoàng hậu sống ở lâu đài Thorenc tại Cannes. Bà Nam Phương gửi các con vào trường trung học Couvent des Oiseaux, nơi bà từng học thời con gái, hằng ngày, ngoài việc chăm sóc con cái, bà thường đọc sách báo hoặc chăm sóc hoa lá trong vườn, buổi tối thì chơi dương cầm cho các con nghe.

Dù không sống cùng cựu hoàng Bảo Đại ở phương Tây, nhưng hoàng hậu Nam Phương không bao giờ có nhân tình, dù chỉ là đi khiêu vũ với một người đàn ông nào khác.
Mẹ con cựu hoàng hậu sống ở lâu đài Thorenc tại Cannes, nước Pháp

Về sau, hoàng hậu Nam Phương rời lâu đài Thorenc ở Cannes để về sống tại lâu đài Domaine de la Perche ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Nouvelle-Aquitaine, cách Paris hoa lệ khoảng 500 cây số.

Bà hoàng nước Nam một thời sống những ngày bình lặng nơi đây, lặng lẽ với thú vui điền viên trong trang trại Charbrignac. Rũ bỏ lớp áo vàng son quyền quý, bà Nam Phương quay lại sống cuộc đời an lành, bình dị của một phụ nữ An Nam học thức.

Vào một ngày mùa thu năm 1963, bà đã lặng lẽ ra đi khi không có một người thân ruột thịt nào bên cạnh. Khi đó, các con bà đang đi học hoặc đi làm ở Paris, còn cựu hoàng Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp.

Đám tang của bà rất lặng lẽ. Ngày đưa tang, hai Hoàng tử Bảo Long (1936), Bảo Thăng (1943) và ba Công chúa Phương Mai (1937), Phương Liên (1938) và Phương Dung (1942) đi bên cạnh quan tài của mẹ.

Trên ngôi mộ đơn sơ dựng một tấm bia đá, mặt trước tấm bia ghi dòng chữ Hán:

“Đại Nam Nam Phương Hoàng Hậu chi lăng” (Dịch nghĩa: Lăng của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam).

Vậy là, cuộc đời của vị hoàng hậu cuối cùng đã khép lại. Vật chất, danh vọng, sắc đẹp chỉ như giấc mộng thoáng qua, nhưng vẻ đẹp tâm hồn, mỹ đức của vị hoàng hậu bao dung, nhân từ vẫn còn vương vấn mãi, như chính danh hiệu Nam Phương của bà - Hương thơm từ phương Nam...

5. Chuyện tình của vua Bảo Đại

Theo wiki, Về Việt Nam được gần một năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát tại Đà Lạt, và được sự dàn xếp của vị Toàn Quyền Pháp Pasquier và viên Đốc lý Darles (Thị Trưởng) Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace Đà Lạt tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương, vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles và viên Đốc lý thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.

Vua Bảo Đại cho biết ông đã gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tàu, ông đã gặp vào cuối năm 1932:

"Vào dịp cuối năm, tôi có lưu lại vài ngày ở Đà Lạt cùng với Toàn Quyền Pasquier, trong dịp gặp ông này ở phòng khách, khách sạn Langbian Palace, ông có giới thiệu một cô gái trẻ là bạn bè của bà Charles, cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Hào, cô thuộc một gia đình điền chủ giàu có ở xứ Nam Kỳ. Cô cũng là người Công giáo như cha mẹ và vừa học hết chương trình học của cô ở trường Oiseaux, bên Pháp. Cô ấy 18 tuổi."
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:

"Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được". Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:

-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người phụ nữ Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".

Về cuộc tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:

"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".

Sau vài dịp gặp gỡ: "Một tình cảm êm dịu đã nảy sinh giữa chúng tôi. Chúng tôi đã quyết định gặp lại nhau". "Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê".

Khi vua Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra các điều kiện:

- Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Chánh cung Hoàng hậu ngay trong ngày cưới.
- Được giữ nguyên đạo Công giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
- Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
- Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.

Một tờ báo Annam tiết lộ tin vào ngày 22 tháng 2 năm 1934 là Bảo Đại kết hôn với một cô gái theo đạo. Cả Hoàng gia rúng động và phủ quyết. Tôn Thất Đàn dự tính làm một thỉnh nguyện thư chung của tất cả quan lại cao cấp phản đối việc này, còn nghĩ đến giải pháp bắt Nam Phương phải bỏ đạo Công giáo theo đạo Phật.

Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc Triều Nguyễn, Bảo Đại đã nói: "Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình."

Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 năm 1934 ở Huế. Khi đó Bảo Đại đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 20 tuổi.

Quyết định của Bảo Đại lấy vợ theo đạo Công giáo đã gây khủng hoảng lớn trong cả triều đình nhà Nguyễn, nơi chính quyền Pháp và Toà Thánh La Mã. Theo luật lệ của Công giáo La Mã, tín đồ không được kết hôn với người ngoại đạo, trong khi Bảo Đại không theo đạo nào cả, ông từng viết: "Ở trong cung, chỉ có một ông Trời, đó là Hoàng đế, con ông Trời" ("Au palais, il n'y avait qu'un Dieu: L'empereur, fils du ciel").

Gia đình của Nguyễn Hữu Thị Lan lo chuyện hôn nhân không thành do trở ngại tôn giáo đã khẩn cầu đến Đức Thánh Cha qua trung gian đại diện Tòa Thánh ở Đông Dương. Không lâu sau, cả nước Pháp cũng nhập cuộc bằng đường lối ngoại giao của tòa đại sứ Pháp cạnh tòa thánh. Người Pháp có đủ những yếu tố lợi về chính trị, tôn giáo trong chuyện này.

Dự định của người Pháp trong cuộc hôn nhân này chỉ là một lợi ích chính trị nhằm hóa gìải những chống đối có thể có mà chính Bảo Đại ở thời kỳ đó cũng không biết rõ được. Bảo Đại đã bị dẫn dắt vào một trò chơi chính trị của nước Pháp qua quan toàn quyền Pháp, qua trung gian ông bà Charles cũng như đại sứ Pháp Charles Roux ở Roma:

"Nước Pháp thấy cần thiết, về mặt chính trị, phải có một chọn lựa ngay về cái người con gái có thể hoá giải các sự chống đối và đố kỵ... Trong khi đó thì tất cả các cô gái được tuyển chọn do hàng quan lại đều không có được một nền học vấn Tây Phương và sẽ không tránh được rơi vào ảnh hưởng của các bà Mẫu Hậu... Nhà vua nay thì có thể nắm biết được quyền lợi mà chính quyền muốn thực hiện về dự định này, chính là qua các người đàn bà mà những hàng quan lại chống đối cũ muốn dựa vào để kèm kẹp thái tử ra khỏi ảnh hường của người Pháp... Chúng ta sẽ lật ngược những toan tính đó và hoàng hậu tương lai mà chúng ta mong đợi sẽ là một đồng minh quan trọng để bào đảm cho sự thành công nhất định về chính trị của chúng ta ở Huế."

Theo hồi ký của Vua Bảo Đại, chỉ sau khi làm đám cưới xong, ông mới gửi thư cho Giáo hoàng Piô XI một lá thư qua trung gian người Pháp, vì thời đó nước ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Nếu Hoàng Hậu muốn xin phép thì phải gửi thư qua các cha cố, theo hệ thống nhà đạo.

Tại Roma, qua đại sứ Chareles Roux đã tìm hết cách để cuộc hôn nhân được Giáo hoàng chấp nhận, ngay cả trong trường hợp một cuộc hôn nhân kín đáo giữa vài nhân vật trong Hoàng Gia. Phần Toà Thánh, Giáo hoàng không muốn đi ngược lại luật lệ đã quy định. Tháng Giêng năm 1934 tức là ba tháng sau khi đệ đơn lần thứ nhất xin phép Giáo hoàng không được, chính quyền bảo hộ có sáng kiến yêu cầu Nhà vua ban thưởng cho các Hồng y. Thế là Hồng y Pietro Fumasoni Biondi được trao Nam Long bội tinh đệ nhất đẳng, còn các cộng sự thì được ban thưởng bội tinh đẳng cấp thấp hơn.

Nhưng rồi cuộc hôn nhân vẫn được tiến hành dù không được phép chuẩn của Toà Thánh Vatican. Tờ Osservatore Romano, cơ quan ngôn luận của Toà Thánh cũng phủ nhận mọi tin đồn và xác nhận rằng Toà Thánh vẫn giữ lập trường như cũ và không thay đổi. Vì thế sau 63 năm khi bình luận về tin vua Bảo Đại băng hà, phái viên hãng Reuters vẫn còn nhắc lại một cuộc hôn nhân không chính thức ("Union non-officialisé")" của bà Nam Phương Hoàng Hậu.

Sau đó một bữa yến tiệc đã được tổ chức tại cung An Định với hơn 700 khách mời với viên Toàn Quyền Đông Dương và các Khâm sứ Trung Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ. Buổi chiều hôm đám cưới, vua Bảo Đại đã mời ông bà Charles ăn bữa cơm: "Sứ mạng của công việc của họ làm đã hoàn tất, Họ sẽ lên đường trở về Paris".

Ngay ngày hôm sau, lễ tấn phong hoàng hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Thái Hòa. Hoàng đế phong Nguyễn Hữu Thị Lan tước vị Nam Phương Hoàng Hậu. Theo một bài viết trên tờ Ngọ Báo tại Hà Nội, Bảo Đại vốn đặt cho hiệu là Nam Hương Hoàng hậu, nhưng viên chấp sự biên sai ra chữ Quốc ngữ thành Nam Phương Hoàng hậu.

Bảo Đại kể về lễ tấn phong hoàng hậu trong hồi ký như sau:

"Vâng, tôi đã quyết định đặt vợ tôi lên làm Hoàng Hậu trong cuộc hôn nhân này, cái chức mà chỉ dành cho mẫu hậu khi mà nhà vua đã qua đời. Mặc phẩm phục triều đình với chiếc áo choàng rộng, đi giầy hài mũi cong nhọn, chít khăn có đính những viên đá quý. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước Annam mà một người đàn bà đã tiến lên một mình giữa sự chào đón của triều đình... Cũng vẫn chỉ một mình, cô đã vào trong đại sảnh đã có tôi đợi ở đó, và ngồi ở một cái đôn để ở thấp hơn.

Hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam

Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một điều hiếm hoi đối với các chính cung trong triều Nguyễn vì các đời trước mới chỉ có duy nhất Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Gia Long được phong Hoàng hậu khi còn sống. Bắt đầu từ năm 1934, triều đình nhà Nguyễn dùng từ Ngài Hoàng để thưa gởi hoặc nói về Nam Phương Hoàng Hậu.

Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: "Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế".

Sau lễ cưới, Bảo Đại cùng Nam Phương không được ở trong Tử Cấm thành theo quyết định của Hội đồng hoàng tộc (Tôn nhân phủ). Thoạt đầu họ ở một cung điện riêng, sau này gọi là điện Kiến Trung ở gần ngay đấy nhưng vẫn là ngoài khu vực Tử Cấm thành. Bảo Đại đã van nài Hoàng Thái hậu Từ Cung và bà đã khẩn khoản xin với Tôn nhân phủ để cuộc hôn nhân này được chấp nhận. Điện Kiến Trung xây cất từ thời Khải Định, nhưng đã được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều Bảo Đại, trong đó có phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng làm việc. Bề ngoài cung điện vẫn được giữ y nguyên như cũ, nhưng bên trong được kiến trúc sư M. Chatel thay đổi toàn diện làm cho nó mới hơn, rộng rãi, thoáng mát, vệ sinh và thực tiễn hơn.

Khi đó công việc hàng ngày của Hoàng hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Từ Cung Hoàng thái hậu, tức mẹ của Bảo Đại. Hoàng hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu yêu cầu bà soạn đơn xin phép Bộ Giáo dục thời bấy giờ đưa môn nữ công gia chánh vào học đường.

Hoàng hậu cũng xuất hiện thường xuyên bên cạnh Bảo Đại trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Miên... Có lần Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng.

Hoàng hậu Nam Phương cũng cư xử rất khéo với mọi người tôn sùng đạo Phật trong hoàng tộc. Bà hay đi lễ chùa, có khi cho cả các con đi cùng nhưng bà cũng hạn chế đến mức tối thiểu chỉ cho dự những ngày lễ chính của đạo Phật, can ngăn không cho Thái hậu đeo bùa ở cổ tay cháu nội của bà. Bà cũng khước từ đeo vào vai túi đựng những lá bùa. Bà tham dự các buổi lễ Phật, đi thăm các lăng tẩm, luôn đứng thẳng người nhưng hai tay bao giờ cũng chắp lại ngang ngực với một thái độ kính cẩn. Nhưng bà cũng kiên quyết đòi thực hiện các biện pháp canh tân của mình.

Ngày 1 tháng 1 năm 1947, Nam Phương Hoàng hậu cùng các con rời Việt Nam sang Pháp. Ở đây Bà được nhận một khối tài sản lớn do cha đẻ của mình trao cho. Đó là một chung cư lớn tại Neuilly và một chung cư tai Đại lộ Opera, ngoài ra còn nhiều nhà đất ở Côngô, Marốc… Tất cả Bà chia cho các con, chỉ giữ lại một trang trại ở Chabrignac gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần 100 con bò và một vườn hồng lúc nào cũng nở hoa.

Tháng 8 năm 1947, đài phát thanh Việt Minh phát từ Huế một tin, thuật lại một bài đăng trên báo Continental Daily Mail ra ngày 25 tháng 7 năm 1947 tại London:"Các nhà chức trách Pháp đến thăm cựu Hoàng hậu Nam Phương, đề nghị bà đưa con trai bà mười ba tuổi lên ngôi. Bà không trả lời. Trong lúc các vị khách Pháp giải thích thì bà đến trước đàn dương cầm thản nhiên chơi bài Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam...".

Một tháng sau, tờ Echo du Vietnam tiết lộ:"Một kế hoạch xảo quyệt do Hội thuộc địa trình bày. Họ chủ trương khôi phục chế độ quân chủ ở An Nam. Có thể khởi đầu bằng một cuộc thoái vị trọng thể của Bảo Đại nhường ngôi cho con trai. Cựu hoàng phải thừa nhận sai lầm của bản thân, tự nguyện rút lui khỏi chính trường để mở đường cho sự hoà hợp chân thành với nước Pháp".Một nhà báo hỏi cựu Hoàng hậu Nam Phương lúc đó đang ở Đà Lạt: "Có phải con bà sắp lên ngai vàng không?". Bà không trả lời nhưng cũng không cải chính. Thực tế Bảo Long, mùa hè năm 1947 đang sống dưới sự chăm sóc của bà ngoại tại Đà Lạt.

Ngày 12 tháng 8 tại Huế năm 1947, cựu Hoàng hậu Nam Phương quyết định rời khỏi Việt Nam, bà và các con đáp máy bay Anh để tới Hồng Kông thăm chồng. Người tình Lý Lệ Hà, thứ phi Bùi Mộng Điệp và các cô gái trẻ khác tạm lánh mặt, ít nhất trong một thời gian. Không bao lâu sau đó bà Nam Phương và các con rời Hồng Kông sang Pháp. Chuyến đi phải tạm dừng lại ở Băng Cốc chờ khắc phục những trục trặc kỹ thuật của chiếc thủy phi cơ. Do không đề phòng trước những hỏng hóc, nên sau nhiều ngày, mọi người đều phải chuyền sang đi tàu thủy cùng với hành lý.

Năm 1947 tới Pháp, trong thời gian đầu, mẹ con bà Nam Phương về Cannes, nơi có toà lâu đài Thorenc được dành cho cả gia đình. Từ đó bà Nam Phương chỉ có thể biết qua tình hình trong nước nhờ những lá thư của chị ruột là bà nam tước Didelot ở lại Sài Gòn báo tin.

Năm 1949, Bảo Đại trở về Việt Nam làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, nhưng bà Nam Phương vẫn ở bên Pháp. Những ngày nghỉ lễ, bà Nam Phương thường đi phố cùng các con để mua đồ chơi cho chúng hoặc đi xem chiếu bóng với hoàng tử Bảo Thắng, công chúa Phương Dung là hai người con nhỏ nhất. Cũng có những lúc Bảo Đại về Pháp, bà Nam Phương cùng đi với Bảo Đại tới casino để xem ông chơi baccarat hoặc roulette cho vui. Những lần có bà cùng đi, nếu được bạc thì Bảo Đại tặng hết cho bà để sắm sửa quần áo.

Nam Phương Hoàng hậu ưa thời trang của hãng Christian Dior và Balmain. Bà cũng ăn mặc sành điệu và màu tím nhạt là màu bà ưa thích nhất. Hàng ngày sinh hoạt của bà là chăm lo cho các con hay đọc sách báo hoặc ra vườn trồng hoa, tỉa lá. Buổi tối bà thích chơi dương cầm cho các con nghe.

Trong phòng bà, người ta thấy treo những bức họa của Renoir, Buffet. Bà không thích tranh lập thể của Picasso vì tâm hồn không hợp với trường phái hội họa này cũng như siêu thực. Trong nhà bà có cả một đàn chó, có một con thuộc giống Saint Bernard. Về thể thao bà có thể chơi bóng bàn, quần vợt và golf nhưng không giỏi lắm.

Ngay cả ông Bảo Đại cũng chưa bao giờ dám trách vợ về việc trai gái, vì kể từ ngày ly thân với Bảo Đại, bà Nam Phương không có một người nhân tình nào, dù là đi khiêu vũ hay đi tắm biển với một người đàn ông nào khác.

Cuối đời

Sau năm 1955, Bảo Đại để bà Nam Phương ở nhà một mình với mấy người con khi đó đã lớn, mỗi người đi làm một nơi. Về sau, bà Nam Phương rời lâu đài Thorenc ở Cannes để về sống ở lâu đài Domain de la Perche ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Nouvelle-Aquitaine cách Paris chừng bốn năm trăm cây số.

Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Về đời sống vật chất thì bà Nam Phương không lúc nào thiếu thốn khi sống ở xứ người. Tài sản riêng do gia đình Nguyễn Hữu Hào tậu cho bà gồm một chung cư lớn tại Neuilly và ở đại lộ Opera. Ngoài ra bà còn nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo... Những bất động sản này bà đã chia cho các con mỗi đứa một phần riêng và chỉ giữ lại trang trại ở Charbrignac, gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần trăm con và một vườn hồng lúc nào cũng nở hoa. Nhà của bà ở cách biệt với những nhà dân ở vùng này, vì là làng quê nên mọi người ít có dịp giao thiệp với nhau. Và đã có lần bà Nam Phương ngỏ ý được trở về Việt Nam để được an táng bên cạnh hai mộ cha mẹ ở Đà Lạt nhưng Bảo Đại và các con không đồng ý.

Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống trầm lặng. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của công chúa Phương Liên kết hôn với chàng trai người Bordeaux. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.

Những năm sau này bà Nam Phương ít đi ra ngoài và gặp gỡ ai. Cũng có đôi khi bà Nam Phương đi Paris để thăm các con đang học và làm ăn ở đó. Và ngược lại những dịp hè thì các con có về đây thăm mẹ ở ít ngày cho bà đỡ buồn. Thời gian này bà bị bệnh tim nặng làm khó thở.

Qua đời

Ngày 15 tháng 9 năm 1963, sau khi ra nắng bị cảm lại đi tắm bà bị sốt cao, bà thấy đau họng. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia cùng các hầu gái đã vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng vì bệnh viện ở xa, bác sĩ không tới kịp nên bà đã ra đi vào lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng 9 năm 1963.

Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp.

Đám tang của bà Nam Phương được cử hành theo nghi thức đạo Công giáo vào 12h trưa ngày 18 tháng 9 năm 1963. Đám tang không có sự tham gia của cựu hoàng Bảo Đại, chỉ có các Hoàng tử, Công chúa và một số bạn bè thân thiết của gia đình. Tại địa phương có vị Tỉnh trưởng và dân biểu địa phương bà Nam Phương cư ngụ tới chia buồn và dự tang lễ. Đặc biệt có sự tham dự của Công chúa Như Lý, con gái của vua Hàm Nghi. Công chúa Như Lý cũng ở gần nơi bà Nam Phương cư ngụ, nhưng khi bà Nam Phương còn sống thì bà Như Lý chưa bao giờ tới thăm, mà duy nhất lần này bà Nam Phương tạ thế Công chúa tới dự đám tang.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét