Iran-Israel: Một lịch sử thù hận
Khi mối quan hệ giữa Iran- Israel "hai kẻ thù không đội trời chung" đang đẩy lên một mức căng thẳng mới, dư luận quan tâm rằng, vì sao hai nước từng có mối quan hệ "bạn thân" trong quá khứ lại trở nên thù hận như ngày nay?Các quan chức quốc phòng Iran với các đối tác Israel tại trụ sở quân đội Israel vào năm 1975. Ảnh: Wikimedia Commons.
Từ bạn thân trở thành kẻ thù không đội trời chung
Với một lịch sử hận thù trong nhiều năm gần đây, thật khó tưởng tượng rằng Iran-Israel đã từng có mối quan hệ thân thiện và hợp tác trên nhiều cấp độ trong suốt 30 năm sau khi nhà nước Israel được thành lập từ năm 1948. Trong thập niên 60 và 70 đã chứng kiến những cột mốc hợp tác "rực rỡ" của hai nước khi Israel có rất nhiều nhà thầu và cố vấn quân sự cư trú tại Tehran, một trường dạy tiếng Do Thái được mở ở đó cho trẻ em Israel. Còn hãng hàng không El Al mở các chuyến bay thường xuyên giữa Tel Aviv và thủ đô Iran.
Xét về địa lý, Iran và Israel không có chung biên giới và không có tranh chấp lãnh thổ. Hơn nữa, người Do Thái đã sống ở Ba Tư (nay là Iran) trong khoảng 2.700 năm, lịch sử người Do thái ghi nhận đây là vùng đất nương náu an toàn, đặc biệt dưới thời trị vì của hoàng đế Cyrus Đại đế trong thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên.
Sau sự kiện Israel giành độc lập vào năm 1948, khi Iraq trấn áp các công dân Do Thái ở nước này và nhiều người bỏ chạy khỏi Iraq để tái định cư ở Israel, Iran đã đóng vai trò như một trạm nghỉ cho những người Do thái trốn thoát.
Tehran phản đối việc chấp nhận Israel như là một quốc gia thành viên Liên hợp quốc vì trước đó năm 1947, Iran đã bỏ phiếu chống lại Kế hoạch phân vùng của Liên hợp quốc cho Palestine. Tuy nhiên, vào năm 1950, Iran lại trở thành quốc gia Hồi giáo thứ hai (sau Thổ Nhĩ Kỳ) trên thế giới công nhận Nhà nước Israel.
Mỗi quốc gia đều có lý do riêng để thúc đẩy quan hệ với nước khác. Đối với Iran, Israel được coi là một phương tiện thông qua cộng đồng Do Thái - Mỹ để giành được sự tài trợ của Mỹ, siêu cường khi đó đang tìm kiếm các đồng minh trong cuộc chiến tranh giành quyền thống trị toàn khu vực và toàn cầu với Liên Xô.
Khi Chiến tranh Lạnh đang tiếp diễn, là một nguồn cung cấp dầu quan trọng, cộng với quyền kiểm soát con đường tiếp cận Vịnh Ba Tư, Iran trở thành một đồng minh quan trọng của Mỹ. Về vấn đề này, họ tìm thấy điểm chung lớn với Israel.
Trong khi đó, theo quan điểm của Israel, Iran phù hợp với "Học thuyết ngoại biên" của Thủ tướng lập quốc Israel, David Ben-Gurion - theo đó Israel đã cố gắng tăng cường mối quan hệ với những kẻ thù như Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Ethiopia, cũng như các người Cơ đốc giáo Maronite ở Lebanon và người Kurd ở Iraq.
Vì một sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, Iran đã bán dầu cho Israel khi không một quốc gia giàu dầu lửa nào khác trong khu vực làm như vậy. Tehran cũng trở thành một nhà nhập khẩu lớn hàng hóa và dịch vụ của Israel, bao gồm không chỉ các dự án nông nghiệp, dân cư, y tế và cơ sở hạ tầng, mà còn đào tạo các cơ quan tình báo của Israel cung cấp cho cảnh sát bí mật khét tiếng của shah, Savak. Ngay cả sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979, khi Iran đột ngột cắt đứt quan hệ ngoại giao với Israel, hợp tác quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục trong vài năm bởi Tehran cần Tel Aviv cung cấp vũ khí phục vụ cuộc chiến tàn khốc với nước Iraq láng giềng.
Chính Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã thuyết phục Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân năm 2015 với Iran. Nhưng trên thực tế, chỉ hai năm trước cuộc Cách mạng Hồi giáo, Israel và Iran đã từng hợp tác trong "Dự án Hoa", một kế hoạch chung để phát triển một tên lửa có thể mang một đầu đạn hạt nhân.
Mối quan hệ tưởng chừng như "cả hai cùng thắng" cuối cùng cũng gặp những trắc trở khi xuất hiện những thay đổi lớn trong địa chính trị. Cái chết của các nhân vật thân Israel như Nasser vào năm 1970 và sự ra đi của Anwar Sadat đã dẫn đến sự ấm lên của các mối quan hệ giữa Iran với thế giới Ả Rập. Hơn nữa, việc ký kết một thỏa thuận giữa Iran và Iraq vào năm 1975 - trong đó Iran đã đồng ý ngừng vũ trang những người ly khai người Kurd ở Iraq - dẫn đến việc giảm bớt sự thù địch tạm thời giữa hai cựu thù này. Trong cả hai trường hợp, giá trị chiến lược của Israel đối với Iran đều bị ảnh hưởng.
Trong khi đó, các giáo sĩ Hồi giáo ở Iran vẫn duy trì truyền bá tư tưởng chống lại Israel. Vì thế khi chế độ quân chủ bị lật đổ trong một cuộc Cách mạng năm 1979, và chế độ thế tục độc tài của Shah Mohammad Reza Pahlavi được thay thế bởi giáo chủ ôn hòa Ayatollah Ruhollah Khomeini, mối quan hệ với Israel là một trong những thứ đầu tiên phải ra đi.
Giáo chủ Ayatollah Khomeini sau thời gian sống lưu vong ở Pháp đã trở về Iran vào ngày 1/2/1979 và không đầy ba tuần sau đó, ông cắt đứt quan hệ với Israel và biến Đại sứ quán Israel thành trụ sở của Tổ chức Giải phóng Palestine.
Mặc dù vậy, kết nối Israel - Iran vẫn tiếp tục cho đến giữa những năm 80 - chủ yếu là vì Iran dưới thời Giáo chủ Khomeini nhanh chóng bị lôi kéo trong cuộc xung đột mở với Iraq của Saddam Hussein. Dù không ưa gì Iran nữa, cơ hội để Israel cung cấp vũ khí cho Iran trong cuộc chiến nà là không thể cưỡng lại. Từ năm 1981 đến năm 1983, Israel đã bán được khoảng 500 triệu đô-la vũ khí cho Iran, hầu hết được trả tiền bằng dầu.
Trong những năm 90, cuộc khẩu chiến giữa Tehran và Jerusalem ngày càng trở nên thù địch và đe dọa, khi Iran cũng thay thế Iraq trở thành mối đe dọa chiến lược quan trọng nhất đối với Israel. Hamas ở Gaza, Hezbollah ở Lebanon và nhóm vũ trang được Iran hỗ trợ, tất cả đều thực hiện cuộc chiến chống chế độ Israel và người Do Thái trên toàn thế giới.
Kế hoạch Iran phát triển vũ khí hạt nhân nổi lên như một mối quan tâm quân sự chính, không chỉ với Israel, mà còn với trật tự quốc tế mới theo sau sự sụp đổ của Liên Xô.
Năm 1987, Thủ tướng Israel Rabin còn gọi Iran là "người bạn thân nhất của Israel", nhưng chỉ vài năm sau đó ông đề cập đến "chế độ giết người tối tăm" của Tehran. Năm 1996, Thủ tướng Israel Simon Peres cáo buộc chế độ Hồi giáo "nguy hiểm hơn Hitler".
Sự thù hận lên đến đỉnh điểm
Với một lịch sử hận thù trong nhiều năm gần đây, thật khó tưởng tượng rằng Iran-Israel đã từng có mối quan hệ thân thiện và hợp tác trên nhiều cấp độ trong suốt 30 năm sau khi nhà nước Israel được thành lập từ năm 1948. Trong thập niên 60 và 70 đã chứng kiến những cột mốc hợp tác "rực rỡ" của hai nước khi Israel có rất nhiều nhà thầu và cố vấn quân sự cư trú tại Tehran, một trường dạy tiếng Do Thái được mở ở đó cho trẻ em Israel. Còn hãng hàng không El Al mở các chuyến bay thường xuyên giữa Tel Aviv và thủ đô Iran.
Xét về địa lý, Iran và Israel không có chung biên giới và không có tranh chấp lãnh thổ. Hơn nữa, người Do Thái đã sống ở Ba Tư (nay là Iran) trong khoảng 2.700 năm, lịch sử người Do thái ghi nhận đây là vùng đất nương náu an toàn, đặc biệt dưới thời trị vì của hoàng đế Cyrus Đại đế trong thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên.
Sau sự kiện Israel giành độc lập vào năm 1948, khi Iraq trấn áp các công dân Do Thái ở nước này và nhiều người bỏ chạy khỏi Iraq để tái định cư ở Israel, Iran đã đóng vai trò như một trạm nghỉ cho những người Do thái trốn thoát.
Tehran phản đối việc chấp nhận Israel như là một quốc gia thành viên Liên hợp quốc vì trước đó năm 1947, Iran đã bỏ phiếu chống lại Kế hoạch phân vùng của Liên hợp quốc cho Palestine. Tuy nhiên, vào năm 1950, Iran lại trở thành quốc gia Hồi giáo thứ hai (sau Thổ Nhĩ Kỳ) trên thế giới công nhận Nhà nước Israel.
Mỗi quốc gia đều có lý do riêng để thúc đẩy quan hệ với nước khác. Đối với Iran, Israel được coi là một phương tiện thông qua cộng đồng Do Thái - Mỹ để giành được sự tài trợ của Mỹ, siêu cường khi đó đang tìm kiếm các đồng minh trong cuộc chiến tranh giành quyền thống trị toàn khu vực và toàn cầu với Liên Xô.
Khi Chiến tranh Lạnh đang tiếp diễn, là một nguồn cung cấp dầu quan trọng, cộng với quyền kiểm soát con đường tiếp cận Vịnh Ba Tư, Iran trở thành một đồng minh quan trọng của Mỹ. Về vấn đề này, họ tìm thấy điểm chung lớn với Israel.
Trong khi đó, theo quan điểm của Israel, Iran phù hợp với "Học thuyết ngoại biên" của Thủ tướng lập quốc Israel, David Ben-Gurion - theo đó Israel đã cố gắng tăng cường mối quan hệ với những kẻ thù như Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Ethiopia, cũng như các người Cơ đốc giáo Maronite ở Lebanon và người Kurd ở Iraq.
Vì một sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, Iran đã bán dầu cho Israel khi không một quốc gia giàu dầu lửa nào khác trong khu vực làm như vậy. Tehran cũng trở thành một nhà nhập khẩu lớn hàng hóa và dịch vụ của Israel, bao gồm không chỉ các dự án nông nghiệp, dân cư, y tế và cơ sở hạ tầng, mà còn đào tạo các cơ quan tình báo của Israel cung cấp cho cảnh sát bí mật khét tiếng của shah, Savak. Ngay cả sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979, khi Iran đột ngột cắt đứt quan hệ ngoại giao với Israel, hợp tác quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục trong vài năm bởi Tehran cần Tel Aviv cung cấp vũ khí phục vụ cuộc chiến tàn khốc với nước Iraq láng giềng.
Chính Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã thuyết phục Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân năm 2015 với Iran. Nhưng trên thực tế, chỉ hai năm trước cuộc Cách mạng Hồi giáo, Israel và Iran đã từng hợp tác trong "Dự án Hoa", một kế hoạch chung để phát triển một tên lửa có thể mang một đầu đạn hạt nhân.
Mối quan hệ tưởng chừng như "cả hai cùng thắng" cuối cùng cũng gặp những trắc trở khi xuất hiện những thay đổi lớn trong địa chính trị. Cái chết của các nhân vật thân Israel như Nasser vào năm 1970 và sự ra đi của Anwar Sadat đã dẫn đến sự ấm lên của các mối quan hệ giữa Iran với thế giới Ả Rập. Hơn nữa, việc ký kết một thỏa thuận giữa Iran và Iraq vào năm 1975 - trong đó Iran đã đồng ý ngừng vũ trang những người ly khai người Kurd ở Iraq - dẫn đến việc giảm bớt sự thù địch tạm thời giữa hai cựu thù này. Trong cả hai trường hợp, giá trị chiến lược của Israel đối với Iran đều bị ảnh hưởng.
Trong khi đó, các giáo sĩ Hồi giáo ở Iran vẫn duy trì truyền bá tư tưởng chống lại Israel. Vì thế khi chế độ quân chủ bị lật đổ trong một cuộc Cách mạng năm 1979, và chế độ thế tục độc tài của Shah Mohammad Reza Pahlavi được thay thế bởi giáo chủ ôn hòa Ayatollah Ruhollah Khomeini, mối quan hệ với Israel là một trong những thứ đầu tiên phải ra đi.
Giáo chủ Ayatollah Khomeini sau thời gian sống lưu vong ở Pháp đã trở về Iran vào ngày 1/2/1979 và không đầy ba tuần sau đó, ông cắt đứt quan hệ với Israel và biến Đại sứ quán Israel thành trụ sở của Tổ chức Giải phóng Palestine.
Mặc dù vậy, kết nối Israel - Iran vẫn tiếp tục cho đến giữa những năm 80 - chủ yếu là vì Iran dưới thời Giáo chủ Khomeini nhanh chóng bị lôi kéo trong cuộc xung đột mở với Iraq của Saddam Hussein. Dù không ưa gì Iran nữa, cơ hội để Israel cung cấp vũ khí cho Iran trong cuộc chiến nà là không thể cưỡng lại. Từ năm 1981 đến năm 1983, Israel đã bán được khoảng 500 triệu đô-la vũ khí cho Iran, hầu hết được trả tiền bằng dầu.
Trong những năm 90, cuộc khẩu chiến giữa Tehran và Jerusalem ngày càng trở nên thù địch và đe dọa, khi Iran cũng thay thế Iraq trở thành mối đe dọa chiến lược quan trọng nhất đối với Israel. Hamas ở Gaza, Hezbollah ở Lebanon và nhóm vũ trang được Iran hỗ trợ, tất cả đều thực hiện cuộc chiến chống chế độ Israel và người Do Thái trên toàn thế giới.
Kế hoạch Iran phát triển vũ khí hạt nhân nổi lên như một mối quan tâm quân sự chính, không chỉ với Israel, mà còn với trật tự quốc tế mới theo sau sự sụp đổ của Liên Xô.
Năm 1987, Thủ tướng Israel Rabin còn gọi Iran là "người bạn thân nhất của Israel", nhưng chỉ vài năm sau đó ông đề cập đến "chế độ giết người tối tăm" của Tehran. Năm 1996, Thủ tướng Israel Simon Peres cáo buộc chế độ Hồi giáo "nguy hiểm hơn Hitler".
Sự thù hận lên đến đỉnh điểm
Vào ngày 1/4/2024, Israel đã ném bom và phá hủy tòa nhà phụ của lãnh sự quán Iran nằm cạnh Đại sứ quán Iran ở Damascus, Syria. Cuộc tấn công khiến 7 quan chức quân sự thiệt mạng, đã bị cộng đồng quốc tế lên án rộng rãi là vi phạm rõ ràng chủ quyền của Syria, cũng như Công ước Vienna và các chuẩn mực đã được thiết lập trong quan hệ quốc tế.
Nhìn lướt qua lịch sử cho thấy các chủ thể nhà nước hầu như chưa bao giờ tấn công các cơ quan ngoại giao của các quốc gia khác, ngoại trừ trong thời kỳ chiến tranh tổng lực. Ví dụ gần đây và phù hợp nhất là khi Mỹ ném bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, Serbia ngày nay, vào năm 1999, mà Mỹ cho rằng đó là một tai nạn. Mặc dù vậy, chắc chắn là Bắc Kinh không tin trường hợp này xảy ra bất chấp lời xin lỗi từ chính quyền của Tổng thống Bill Clinton.
Theo giới chuyên gia, một tình huống như vậy là hoàn toàn không thể chấp nhận được và tạo tiền lệ khủng khiếp cho quan hệ quốc tế. Israel, cũng như các nước như Mỹ, không có quyền thực hiện các hành động quân sự ở Syria mà không có sự đồng ý rõ ràng của chính phủ Syria được Liên hợp quốc công nhận. Làm như vậy là vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên hợp quốc.
Ngoài việc vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc, vụ tấn công vào lãnh sự quán Iran còn vi phạm rõ ràng Công ước Vienna về Quan hệ Ngoại giao năm 1961 và Công ước Vienna về Quan hệ Lãnh sự năm 1963.
Việc chính phủ của Thủ tướng Benjamin Netanyahu phải dùng đến biện pháp leo thang như vậy là một bước đi táo bạo. Nó đặt ra câu hỏi, tại sao Israel lại làm điều này?
Theo New York Times, một trong những cuộc tấn công đã giết chết Tướng Mohammad Reza Zahedi , người được cho là người chịu trách nhiệm về mối quan hệ của Tehran với Hezbollah ở Lebanon và các nhóm phi nhà nước khác ở Syria, từng phục vụ rộng rãi trên khắp Trung Đông trong thời gian cầm quyền. nhiệm kỳ.
Có lẽ lời giải thích đơn giản nhất cho cuộc tấn công có thể là nó nhằm mục đích ngăn chặn các hoạt động hậu cần của "Trục kháng chiến" và bất kỳ cuộc tấn công tiềm tàng nào chống lại Israel bởi một mặt trận thống nhất.
Đồng thời, nó có lẽ còn phức tạp hơn nhiều và có thể xảy ra với thực tế là chính sách toàn quyền hiện hành của Mỹ đối với Israel gần như chắc chắn sẽ không tồn tại cho đến cuối thập kỷ này. Đối với các nhà lãnh đạo quân sự ở Israel, bây giờ có thể là thời điểm duy nhất để hành động trong một cuộc chiến tranh sinh tồn.
Dư luận ở phương Tây đã giảm mạnh đối với Israel và những hành động tàn bạo đang diễn ra ở Gaza, nhưng mọi chuyện không bắt đầu từ đó. Vào năm 2021, trong những tuần giao tranh ở Gaza năm đó, lần đầu tiên các thành viên Quốc hội Mỹ đã lên tiếng chỉ trích Israel. Năm sau, các tổ chức nhân quyền chính thống như Tổ chức Ân xá Quốc tế và Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã công bố các báo cáo gay gắt cáo buộc Israel thực hiện chế độ phân biệt chủng tộc.
Giữa tháng trước, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu về nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức ở Gaza. Ông Biden cũng đích thân nói với Thủ tướng Netanyahu vào ngày 4/4 rằng ông phải thay đổi cách tiếp cận đối với thảm họa nhân đạo đang diễn ra ở Gaza. Bất chấp những hành động này, Mỹ vẫn khẳng định rằng nghị quyết của UNSC là không mang tính ràng buộc và vẫn đang cung cấp vũ khí cho nỗ lực chiến tranh của Israel, khiến bất kỳ lời nói hay sự bỏ phiếu trắng nào đều được tranh luận một cách hiệu quả.
Ngay cả khi sự ủng hộ của Mỹ có thể lung lay hơn so với trước đây, thì rõ ràng là trên danh nghĩa Washington vẫn đứng về phía Israel - ít nhất là ở thời điểm hiện tại. Vì vậy, có thể thấy rằng rủi ro đối với Israel là cực kỳ cao.
Cuối cùng, một yếu tố không thể phủ nhận là sự tồn vong của chính phủ Israel hiện tại là động lực chính đằng sau cuộc tấn công này. Lãnh đạo đa số Thượng viện Chuck Schumer, quan chức dân cử Do Thái cấp cao nhất ở Washington, ngày 14/3 đã đích thân triệu tập Thủ tướng Netanyahu trong bài phát biểu trước Thượng viện.
Ông cáo buộc nhà lãnh đạo "để cho sự sống còn chính trị của mình được ưu tiên hơn những lợi ích tốt nhất của Israel". Thượng nghị sĩ kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử mới, đồng thời nói thêm rằng Israel "không thể hy vọng thành công với tư cách là một quốc gia bị phần còn lại của thế giới phản đối".
Israel, quân đội được trang bị tốt nhất ở Trung Đông, đang trong tình trạng chiến tranh tổng lực với nhóm du kích Hamas, nhóm này đang chiến đấu tương đối bằng gậy và đá. Việc họ vẫn chưa đạt được mục tiêu tiêu diệt Hamas và giải phóng các con tin mà họ bắt giữ vào ngày 7/10 năm ngoái vẫn là điều khiến chính phủ Netanyahu "ăn không ngon, ngủ không yên". Ngoài ra, phản ứng dữ dội quốc tế gần như thống nhất chống lại Israel vì các hành động quân sự của nước này ở Gaza đã khiến tình hình trở nên không bền vững - mặc dù việc rút lui cũng đồng nghĩa với việc tự sát chính trị đối với Đảng Likud.
Rõ ràng là thủ tướng Israel cần một lối thoát. Một lộ trình rõ ràng sẽ là kích động chính phủ Iran leo thang nghiêm trọng, chuyển hướng sự chú ý của quốc tế khỏi những hành động của Israel ở Gaza và thay vào đó buộc Washington và các đồng minh của họ phải tập hợp lại phía sau Tehran để tự vệ rõ ràng. Điều thú vị là, Biden dường như đã tạo không gian cho một chiến lược như vậy trong cuộc gọi mới nhất với ông Netanyahu khi ông cũng nói thêm rằng Mỹ sẽ bảo vệ trước "các mối đe dọa công khai của Iran chống lại Israel và người dân Israel. Về phần mình, Israel đã cảnh báo Iran rằng họ có thể đưa mọi thứ lên một "cấp độ mới" nếu trả đũa cuộc không kích ở Damascus.
Đánh giá phản ứng từ bên trong Iran, thể hiện rõ qua các tuyên bố và báo cáo chính thức từ các phương tiện truyền thông nhà nước, rõ ràng là các thành phần chính của xã hội dân sự và tinh hoa ở Tehran đang yêu cầu trả thù cuộc tấn công này. Theo báo cáo tình báo phương Tây ẩn danh được hãng truyền thông Bloomberg trích dẫn, một cuộc tấn công như vậy rất có thể xảy ra và trên thực tế nó đã xảy ra vào rạng sáng 14/4 (theo giờ Việt Nam).
Nhưng cũng có khả năng đây chính xác là điều mà chính phủ Israel muốn xảy ra, hy vọng rằng nhu cầu trả thù đột ngột - bên cạnh những cảm xúc bị khuấy động bởi tình hình ở Gaza - có thể khiến chính phủ Iran có một bước đi sai lầm chiến lược, cho phép Israel thực hiện hành động đó, thực hiện nỗ lực cuối cùng để đảm bảo sự hỗ trợ của Mỹ cho nỗ lực quân sự của mình và cũng đảm bảo sự tồn tại chính trị của Netanyahu.
https://danviet.vn/iran-israel-mot-lich-su-thu-han-20240414084701211.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét