Thứ Hai, 8 tháng 4, 2024

Nguyên nhân VNCH sụp đổ ngày 30-4-1975

Đọc tham khảo để biết cách nhìn của người thuộc chế độ VNCH.
Nguyên nhân VNCH sụp đổ ngày 30-4-1975
Việc xây dựng quốc gia VNCH độc lập hoàn toàn thất bại. Các chính quyền của Mỹ có ý định ủng hộ một quốc gia VNCH độc lập với miền Bắc. Các đời tổng thống Mỹ nhiều lần hứa hẹn giúp cho ông Diệm, cũng như với ông Thiệu sau này, xây dựng một “quốc gia Việt Nam độc lập và phú cường”. 

Việc này thất bại, vì đa số giới tinh hoa chính trị Việt Nam CH thời đó đều là người gốc Bắc di cư. Bằng chứng là sau này Hiệp định Paris 1973, Mỹ tái khẳng định Việt Nam là một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền Bắc Trung Nam, theo đúng như nội dung của Hiệp định Genève. Ông Diệm (hay ông Thiệu) có nhiều cơ hội để tuyên bố VNCH là một quốc gia độc lập. Ngay cả Liên Xô, đế quốc cộng sản đỡ đầu cho miền Bắc, đã từng đề nghị hai miền trở thành các quốc gia độc lập. Và từ việc không thuyết phục được các lãnh đạo VNCH tuyên bố độc lập, Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến Việt Nam.

Các liên minh như “liên phòng Đông Nam Á - SEATO” cũng như các đạo quân của Nam Hàn, Phi, Thái Lan… không thể ở lại Việt Nam để can thiệp vào cuộc chiến như dự định của Mỹ. Nguyên tắc của LHQ về “quyền tự vệ chính đáng” và quyền “tự vệ đa phương” chỉ áp dụng cho các quốc gia. VNCH chưa bao giờ là một quốc gia, vì vậy các lực lượng quân sự này lần lượt rút về. Hiệp định Paris 1973 ký kết thì Mỹ cũng không còn lý do ở lại Việt Nam. Vì vậy ông Nguyễn Tiến Hưng mới viết cuốn “Khi đồng minh tháo chạy”.
--------------

Yếu tố Phật giáo Trí Quang

Nhóm Phật giáo do Thích Trí Quang cầm đầu là tác nhân chính đưa đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 và hai anh em ông Diệm bị giết. Biến cố lịch sử này gây xáo trộn chính trị và xã hội miền Nam trong nhiều năm. Người Mỹ đổ bộ vô miền Nam trong lúc các tướng lãnh còn đang tranh giành quyền lực ở Sài gòn.

Người Mỹ đổ quân vào VNCH, không thông qua bất kỳ một hiệp ước nào. Cũng không có một sự đồng thuận của quốc dân (thông qua một cuộc trưng cầu dân ý). Việc "tự tiện" này của Mỹ giúp cho CSVN có được tính "chính danh" trong cuộc "chống Mỹ cứu nước" và "giải phóng miền Nam". Từ đó đưa đến sự cáo chung của chế độ VNCH ngày 30-4-1975.

Phe Phật giáo của nhóm Hòa thượng Trí Quang cho rằng, chế độ ông Diệm đáng bị lật đổ vì đó là “chế độ độc tài gia đình trị”. Điều này cần phải nói lại, vì đây là một vấn đề chính trị.

Ông Diệm có độc tài hay không?

Về độc tài, nếu so sánh ông Diệm với những lãnh đạo châu Á cùng thời như Marcos, Tưởng Giới Thạch, Sukarno, Mao Trạch Đông... thì rõ ràng là so sánh ly nước với biển cả.

Ông Diệm, vào thời điểm chủ nghĩa Mao Ít bành trướng mạnh mẽ ở châu Á, ông có thể hành động như lãnh tụ Sukarno của Indonesia. Năm 1965, Sukarno đàn áp rồi tiêu diệt gần 1 triệu đảng viên cộng sản Indonesia. Ông Diệm đã không làm như vậy.

Ông Diệm cũng không thể so sánh với ông Mao. Ông này được "Sách đen cộng sản" nhắc tới. Ông Mao với "bước tiến nhảy vọt" làm chết từ 30 tới 40 triệu người. 

Ngay cả với Tưởng Giới Thạch cũng làm hại đâu khoảng 28 ngàn người Đài Loan nhân vụ 28 tháng 2.

Biến cố "Phật giáo" năm 1963 do Hòa thượng Trí Quang lãnh đạo, có xảy ra vụ "thảm sát đài phát thanh 8 tháng 5", làm chết 7 trẻ em. Vụ này có nhiều gút mắc, sẽ nói lại bên dưới.

Ngay cả bây giờ, nếu so sánh ông Diệm với ông Mahathir [Mohamad] của Mã Lai hay đám quân phiệt Thái Lan và Miến Điện... thì ông Diệm vẫn "ít độc tài" hơn. Đất nước thời đó trong tình trạng chiến tranh (chiến tranh tự vệ ý thức hệ) mà trí thức, chính trị gia, tôn giáo... được hưởng các đủ quyền tự do cá nhân, còn hơn cả Mã Lai hay Indonesia bây giờ.

Đó là chưa nói tới phẩm chất về giáo dục, về đạo đức, thuần phong mỹ tục được bảo vệ… của nền cộng hòa ở miền Nam. Con người sinh ra ở đây là con người có “tâm”, có đạo đức. Người có học thì là có “thực học”. Học đường thầy ra thầy, trò ra trò. Xã hội tôn ti trật tự, luật pháp được tôn trọng.

Trật tự của xã hội này đã bị phá vỡ từ năm 1975. Các giá trị về con người, về nền pháp trị (trọng luật)... ở đây không bao lâu cũng bị tẩy xóa, rồi nhồi nhét vào những giá trị mới. Những giá trị này có bản sắc thế nào hẳn nhiên mọi người điều biết, không cần giải thích thêm.

Về vấn đề “gia đình trị”

Thực tế cho thấy ông Diệm phong cho bào đệ Ngô Đình Nhu chức cố vấn. Nếu bây giờ ta so sánh gia đình tổng thống Diệm với gia đình tổng thống John F. Kennedy hay gia đình tổng thống Donald Trump… các tổng thống này đều phong cho người nhà của mình chức vụ “cố vấn”.

Trong một xã hội dân chủ pháp trị, người ta chỉ dị nghị, hay phản đối, chỉ khi tổng thống làm những điều trái luật.

Việc phong cho bào đệ làm cố vấn là không hề vi phạm luật dưới thời Đệ nhứt Cộng hòa. Ngay cả việc bà Nhu, một phụ nữ Tây học vừa có nhan sắc vừa thông minh sắc sảo, ưa làm các việc xã hội… do đó bà thường bị (hay được) truyền thông nước ngoài nhắm tới. Điều này không khác với cuộc đời và sự sinh hoạt của các mệnh phụ phu nhân Melania Trump, Jacqueline Kennedy, Brigitte Macron…

Với bấy nhiêu “bằng chứng” không ai có thể kết luận, nói chế độ đó là một chế độ “gia đình trị”.

Vấn đề vi phạm hiệp định Genève nhằm xây dựng quốc gia miền Nam độc tôn Thiên Chúa giáo. Bây giờ tài liệu đã bạch hóa ra hết rồi mà vẫn còn nhiều “Phật tử” sử dụng những tài liệu tuyên truyền từ thời chiến tranh lạnh.

Có tác giả nhắc đến Hiệp định Genève 1954, cho rằng ông Diệm đã không tuân theo nội dung hiệp ước này về khoản “thống nhứt đất nước”. Ông Diệm có mục đích tách miền Nam ra khỏi đất nước Việt Nam, xây dựng vùng lãnh thổ này thành một nước riêng biệt, một quốc gia độc tôn Thiên Chúa giáo... (Phong trào Phật giáo miền Trung - Huế, từ chấn hưng đến dân thân - Chu Sơn, Viet-studies).

Vấn đề Hiệp định Genève 1954

Không hề có vụ vi phạm “hiệp định Genève 1954” đơn giản vì cả hai VNCH và Mỹ đều từ khước ký vào hiệp định.

Lịch sử đã bạch hóa: Anh em ông Diệm chết vì không cho Mỹ đổ quân vô Việt Nam.
Tài liệu khác cho thấy, trận Ấp Bắc, ông Nhu có mục đích "gài" Mỹ để thua trận này, hy vọng Mỹ (thấy khó khăn) sẽ không đổ quân. Ông Nhu cũng từng nói (trong tài liệu bạch hóa đó) là quân CSVN dầu gì cũng là "người Việt". Tức là ông Nhu có ý định thương lượng với ông Hồ để tìm phương cách "thống nhứt đất nước". Vấn đề là, Mỹ không thể không can thiệp vào Việt Nam (vì lo ngại cả Châu Á sẽ theo cộng sản, thuyết Domino sẽ nói ở dưới). Trận Ấp Bắc là cho chính quyền Mỹ thấy rằng nếu không đổ thêm quân, Mỹ và quân VNCH không thể thắng Việt Cộng.

Đến đây ta có thể phác họa sơ khai về vai trò của hòa thượng Trí Quang. Việc gây hỗn loạn xã hội bằng cách sử dụng Phật giáo khiêu khích nhà cầm quyền, qua những việc “thiêu” và “tự thiêu” các tu sĩ Phật giáo, cùng với sự phóng đại của báo chí. Chính quyền ông Diệm bị dư luận quốc tế lên án vì đàn áp tôn giáo, nhứt là ở Mỹ và Pháp. Việc này làm quần chúng Mỹ phẫn nộ và chính quyền Mỹ có cớ can thiệp, lật đổ ông Diệm để đổ quân vào Việt Nam.

Người ta đồn đại Hòa thượng Trí Quang là nhân viên CIA của Mỹ, vì vậy là có căn cứ.

Việc xây dựng quốc gia VNCH độc lập hoàn toàn thất bại

Nếu ta có tham khảo tập tài liệu “Why Vietnam”, còn gọi là tập bạch thư của Mỹ công bố thập niên 1960, giải thích vì sao Mỹ can thiệp vô Việt Nam. Ta thấy rằng các chính quyền của Mỹ có ý định ủng hộ một quốc gia VNCH độc lập với miền Bắc. Các đời tổng thống Mỹ nhiều lần hứa hẹn giúp cho ông Diệm, cũng như với ông Thiệu sau này, xây dựng một “quốc gia Việt Nam độc lập và phú cường”.

Việc này thất bại, vì đa số giới tinh hoa chính trị Việt Nam CH thời đó đều là người gốc Bắc di cư. Bằng chứng là sau này Hiệp định Paris 1973, Mỹ tái khẳng định Việt Nam là một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền Bắc Trung Nam, theo đúng như nội dung của Hiệp định Genève.

Ông Diệm (hay ông Thiệu) có nhiều cơ hội để tuyên bố VNCH là một quốc gia độc lập. Ngay cả Liên Xô, đế quốc cộng sản đỡ đầu cho miền Bắc, đã từng đề nghị hai miền trở thành các quốc gia độc lập.

Và từ việc không thuyết phục được các lãnh đạo VNCH tuyên bố độc lập, Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến Việt Nam.

Các liên minh như “liên phòng Đông Nam Á - SEATO” cũng như các đạo quân của Nam Hàn, Phi, Thái Lan… không thể ở lại Việt Nam để can thiệp vào cuộc chiến như dự định của Mỹ. Nguyên tắc của LHQ về “quyền tự vệ chính đáng” và quyền “tự vệ đa phương” chỉ áp dụng cho các quốc gia. VNCH chưa bao giờ là một quốc gia, vì vậy các lực lượng quân sự này lần lượt rút về. Hiệp định Paris 1973 ký kết thì Mỹ cũng không còn lý do ở lại Việt Nam. Vì vậy ông Nguyễn Tiến Hưng mới viết cuốn “Khi đồng minh tháo chạy”.

Quốc gia độc tôn Thiên Chúa giáo

Ý kiến cho rằng, ông Diệm muốn tách miền Nam ra để lập một quốc gia là một ý kiến chủ quan, rất sai. Cho rằng quốc gia đó là quốc gia “độc tôn thiên chúa giáo” lại càng sai hơn.

Đến nay vẫn còn có những bài viết của các tu sĩ đó, cho rằng người theo đạo Thiên Chúa lấy tổ quốc là Vatican để phục vụ. Hoặc cho rằng đạo Thiên Chúa giáo là “ngoại lai”, là “thông đồng với giặc” vì du nhập từ Tây phương.

Những tu sĩ theo Hòa thượng Trí Quang rõ ràng đã kế thừa tinh thần của “bình tây sát tả”, phong trào tiêu diệt người theo Thiên Chúa giáo, thời Pháp mới vào Việt Nam. Những nhận định này vừa sai vừa nguy hiểm. Bởi vì ngoài đạo thờ ông bà, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều du nhập từ nước ngoài.

Theo đạo nào, Thiên Chúa hay Phật, tất cả đều là “dân tộc” Việt Nam hết cả.

Tất cả các quốc gia mà dân chúng đa số theo đạo Thiên Chúa giáo, chắc cũng khoảng phân nửa dân số địa cầu, ta không thấy quốc gia nào phụ thuộc chính trị vào Vatican. Đơn giản vì đó không phải là mục đích của Vatican và các quốc gia đó đều tách “thần quyền” ra khỏi “thế quyền”. Người theo đạo Thiên chúa hay theo đạo Hồi, đạo Phật ở các quốc gia này đều được đối xử bình đẳng về quyền và trách nhiệm. Tôn giáo hoàn toàn đứng ngoài bộ máy quyền lực của nhà nước.

Nguồn gốc của chiến tranh

Ông Cao Huy Thuần, một “đệ tử ruột” của thầy Trí Quang có bài viết đăng trên Viet-studies, BBC đăng lại, tựa đề “Thầy Trí Quang: Một trang lịch sử”. Trong đó ông có ý kiến rằng "Thừa kế Diệm tức là tiếp tục chiến tranh và dựa trên chiến tranh để nắm quyền".

Ông Thuần có thể xem là “đại diện” của phe theo thầy Trí Quang?

Quan điểm xem ông Diệm như là “nguồn gốc của chiến tranh” là một quan điểm hồ đồ, đổi trắng thành đen.

Thực ra, theo tôi, thì ngay cả thay ông Diệm là Đức Phật thì chiến tranh cũng xảy ra. Bởi vì đảng CSVN đã chuẩn bị chiến tranh từ tháng 7 năm 1960, qua việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam. Tổ chức này đã được thành lập theo nội dung nghị quyết Đại hội đảng lần thứ ba, trực thuộc Trung ương cục Miền Nam của đảng.

Trong cuộc chiến này, ông Diệm, và cả chế độ VNCH, là nạn nhân, đứng trong vai trò tự vệ. Phe Cộng sản miền Bắc là chủ mưu, mở màn cho chiến tranh, bằng những cánh tay nối dài, như các phong trào “hòa bình”, phong trào phản chiến, phong trào Phật giáo và Mặt trận Giải phóng Miền Nam.

Tác giả khác, tên Chu Sơn, bài viết cũng đăng trên VietStudies, nhân dịp Hòa thượng Trí Quang viên tịch. Tác giả viết: “Sau gần một trăm năm kháng chiến với rất nhiều đau thương, mất mát, hy sinh, vào giai đoạn cuối, nhân dân Việt Nam với sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã giành lại độc lập, chủ quyền trên một nửa đất nước: miền Bắc. Một nửa còn lại: miền Nam, nằm trong vòng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ”.

Thiệt tình, chiến sĩ văn hóa “nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong”. Nếu nói miền Nam “nằm trong vòng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ” thì Nhật, Nam Hàn, Đài Loan và Tây Đức… đều nằm “trong vòng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ”. Những quốc gia này đã trở thành giàu mạnh thuộc hàng “đại cường” về kinh tế trên thế giới. Các quốc gia này được như ngày hôm nay là “nhờ” ở cái “niền kim cô” của Mỹ.

Còn về nhận định “độc lập chủ quyền trên một nửa đất nước”, cũng nên xét lại.

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của ông Hồ thời đó mọi thứ đều làm theo chỉ thị của “quốc tế vô sản”, mà thực tế tùy theo lúc “quốc tế vô sản” là Liên Xô hay là Trung Quốc. Trận Điện Biên Phủ từ cây súng cho tới viên đạn, tất cả đều đến từ Trung Quốc. Việt Nam chỉ có máu xương và lòng thù hận. Nếu Mao Trạch Đông không thắng được Tưởng Giới Thạch 1949 thì sẽ không bao giờ có “chiến thắng Điện Biên Phủ”. Vì vậy nói chiến thắng này là “đỉnh cao tự hào của dân tộc” là quá lố.

Ngay Hiến Pháp hiện thời, lời mở đầu cũng đã ghi nhận công ơn của “bạn bè thế giới”. Bạn bè này là ai, nếu không phải là Liên Xô và Trung Quốc? Đến nay Việt Nam vẫn chưa chế tạo được các thứ vũ khí đã dùng cho chiến trường Điện Biên Phủ. Dĩ nhiên không có sự hy sinh nào cao quý hơn máu xương, nhưng nếu không có vũ khí thì với "tầm vông vạt nhọn", Việt Nam vẫn không làm được cái gì.

Các quốc gia Việt Nam, Đại Hàn, Đức, và Trung Hoa đều là những “quốc gia bị phân chia”, có hoàn cảnh lịch sử khá tương đồng và sự hiện diện của quân Mỹ ở các quốc gia này đều có chung mục đích là chống cộng sản xâm lược.

Mỹ có mặt ở Nam Hàn ban đầu là do Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ. Mỹ có mặt ở Nhật là do Hiệp ước hỗ tương từ 1951. Mỹ có mặt ở Đức do thỏa thuận “phân chia vùng ảnh hưởng” của các đại cường chiến thắng Thế chiến thứ II.

Thuyết Domino của Mỹ ra đời sau bốn biến cố liên tục ở châu Á, có liên quan đến cộng sản, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô.

Năm 1949, Quốc Dân đảng thua, Tưởng Giới Thạch phải di tản ra Đài Loan. Năm 1950, Bắc Hàn xâm lược Nam Hàn, với sự trợ giúp của “chí nguyện quân” Trung Quốc. Năm 1954 nhờ sự giúp đỡ của Mao Trạch Đông, khí giới lẫn cán bộ cố vấn. Nhờ đó ông Hồ thắng Pháp qua trận Điện Biên Phủ.

Song song với việc giúp đỡ Việt Nam, Mao Trạch Đông cũng đã cho tổ chức các lực lượng vũ trang cách mạng ở các quốc gia như Phi, Thái Lan, Indonesia v.v… Lo ngại thừa dịp chiến thắng Điện Biên Phủ, đồng thời lo sợ Trung Quốc lợi dụng địa bàn Việt Nam để trả thù cho chiến tranh Triều Tiên. Trung Quốc sẽ tiếp tục yễm trợ cho VNDCCH của ông Hồ để nhuộm đỏ miền Nam. Việc này xảy ra thì toàn khu vực Châu Á sẽ nhuộm đỏ. Vì vậy, Mỹ viện trợ cho Pháp để chống Việt Minh. Rốt cục Pháp thua và Mỹ muốn vào Việt Nam thế chỗ của Pháp.

Chướng ngại vật để Mỹ đổ quân vô Việt Nam, thứ nhứt là nội dung Hiệp định Genève, theo đó các bên không được đổ thêm quân. Thứ hai là ông Ngô Đình Diệm.

Về Hiệp định Genève, Mỹ là bên không ký. Chỉ còn lại Ngô Đình Diệm.

Ông Trí Quang đã đắc lực giúp cho người Mỹ dẹp bỏ ông Diệm.

Mỹ đổ quân vào Việt Nam như nhà không chủ, trong lúc các tướng lãnh còn đang tranh giành quyền lực ở Sài Gòn.

Vì vậy người ta có lý khi cho rằng thầy Trí Quang là gián điệp CIA của Mỹ. Điều này khó có thể kiểm chứng vì cơ quan CIA (Trung ương Tình báo cục) của Mỹ không có thói quen tiết lộ lai lịch của người cộng tác.

Vấn đề là, khi Mỹ đổ quân vào rồi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam mới có cớ dựng cờ “đánh Mỹ cứu nước” và hoạt động công khai. Quân miền Bắc cũng đồng thời bước qua vĩ tuyến 17 tiến vào miền Nam.

Nhiều người khác cũng cho rằng thầy Trí Quang là đảng viên, là “cán bộ xách động và tuyên truyền” của đảng CSVN gài vào miền Nam để quấy rối. Ý kiến này cũng thuyết phục.

Ta cũng không dễ lấy bằng chứng từ đảng CSVN. Nhưng từ những trang tự truyện của thầy, ta đã thấy có sự quan hệ giữa thầy và đảng CS. Lúc thầy Trí Quang đọc "Bản tường trình sự cần thiết thành lập Mặt trận Việt Minh" của Trường Chinh, nội dung nói rõ quan điểm “giải phóng dân tộc”, ta thấy giống y cái cảnh Nguyễn Tất Thành đọc bản “luận cương về các vấn đề dân tộc” của Lê nin. Nguyễn Tất Thành trở thành “đồng chí” Linov với nhiệm vụ “xách động và tuyên truyền - Agiprop”. Thì ta có thể suy luận tương tự Hòa thượng Trí Quang được đưa vào Nam để làm nhiệm vụ tương tự.

Và đây cũng là lý do giải thích vì sao thầy Trí Quang im lặng sau năm 1975. “Mission accompli”, nhiệm vụ đã hoàn tất thì vọng động nữa làm chi?

Ông Nguyễn Hữu Liêm có đề nghị (trên facebook) nhà nước CSVN phong thầy Trí Quang là “anh hùng dân tộc”. Rõ ràng cái nào cũng có cái lý của cái đó.
***

Một chuyện tuy bên lề nhưng cũng nên kể để minh họa cho vai trò “cán bộ chiến lược” của Hòa thượng Trí Quang. Khi ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống thì giới chính trị miền Nam lúc đó nói chơi với nhau là ông Trí Quang mới làm tổng thống. Ông Trí Quang có thực lực là quần chúng Phật giáo trong khi ông Minh không có gì cả. Vì tin tưởng Hòa thượng Trí Quang, nghĩ rằng ông này có “giải pháp” cho Miền Nam. Đến ngày cuối, người ta đồn ông Minh than rằng “thầy làm chết tôi rồi”! Ông Minh hy vọng với việc “bàn giao quyền lực” trên cương vị tổng thống thì chắc sẽ có một vai trò trong nhà nước mới. Vấn đề là Sài gòn sụp đổ, ông Minh không có “quyền lực” nào nữa, dầu là tượng trưng để mà giao.

Bài viết ông Thuần cũng có nhiều chi tiết cần xét lại. Chỉ đưa ra hai thí dụ. Thứ nhứt, về "ngọn lửa Quảng Đức là ngọn lửa từ bi" và nguyên nhân cái chết của bảy em bé trong "biến cố" đài phát thanh 8-5-1963.

Điểm 1, tài liệu, hình ảnh bây giờ đã được "giải mật", đã công bố, Thượng tọa Thích Quảng Đức không hề "tự" thiêu, tức tự châm lửa đốt mình. Người ta cầm can xăng đổ lên người ông rồi đốt. Gọi đó là "lửa từ bi" hay "lửa sát nhân" đều đúng, chỉ khác góc nhìn.

Thứ hai, vụ bảy em bé, ông Thuần nói là bị lính ông Diệm "bắn chết". Thầy Trí Quang viết "đống xương thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu huyết của những kẻ thân yêu mới cười nói với mình trước đó không quá 10 phút".

Đạn nào mà bắn "dữ" vậy?

Chuyện này phải nhắc lại Biến cố "đài phát thanh 8-5-1963", nguyên nhân đưa tới “phong trào Phật giáo miền Trung”.

Nguyên nhân là đài phát thanh Huế không đồng ý cho phát bài thuyết pháp của thầy Trí Quang, vì lý do chưa kiểm duyệt. Nghi vấn là tại sao lại có "quần chúng" với đông đảo con nít tụ họp trước đài phát thanh để đón nghe bài thuyết pháp này? Con nít tới đó nghe làm chi?

Khi đài không phát (vì chưa kiểm duyệt) thì "quần chúng" nổi dậy “làm cách mạng”. Vụ này làm cho bảy trẻ em bị chết. Phe “cách mạng” nói là do quân ông Diệm quăng lựu đạn. Ông Thuần thì nói bị đạn bắn. Nhưng theo nhiều tài liệu ghi lại, bảy nạn nhân không thể tử thương do “lựu đạn”, hay do bất kỳ một thứ vũ khí nào của VNCH có thời đó. Theo giảo nghiệm của bác sĩ người Đức thì thân xác bảy nạn nhân không thấy có miểng lựu đạn, hay đầu đạn. Kết luận của bác sĩ là các em chết vì một “sức ép cực mạnh khiến thân xác không vẹn toàn”. Vũ khí nào “sát thương” như vậy nếu không phải là C4, thường được điệp viên Mỹ sử dụng trong các điệp vụ?

Nói thầy Trí Quang là CIA vì vậy rất thuyết phục.

Kết luận:

Dưới mắt nhiều người dân Việt Nam thì từ năm 1963 đến nay là “một trang sử” đầy máu và nước mắt lẫn nhục nhằn. Trang sử viết dở dang, không ai biết sự thống khổ còn kéo dài bao giờ mới chấm dứt.

Một trang sử hàng chục triệu người dân chết bị bỏ quên. Có người chết trước cổng chùa. có người chết trên đường di tản. Có người chết trong bụng cá, chết ngộp giữa đại dương. Có người chết nhục nhã vì hải tặc. Và đến bây giờ vẫn có người còn tiếp tục chết. Chết vật vã đau thương trong thùng đông lạnh. Chết trên đường băng qua biên giới các xứ Đông Âu đầy tuyết giá...

Vì đâu chết?

Người "làm nên lịch sử" đến chết cũng không nói được nửa lời. Nói là tranh đấu cho “công lý”, cho “đạo pháp và dân tộc”. Nhưng rốt cục lại góp tay lật đổ ông Diệm, mở đường cho Mỹ vào. Đồng thời mở đường cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chính thức tuyên bố hoạt động ở miền Nam. Từ đó đưa tới VNCH sụp đổ.

Trong một cuộc chiến tranh, ở đâu cũng vậy, nếu một bên không nỗ lực hy sinh để bảo vệ đất nước, dân và quân không ý thức được ở đâu là quyền và lợi ích của họ trong công cuộc bảo vệ đất nước, chắc chắn bên đó sẽ thua trong cuộc chiến.

Một chuyên gia quân sự Tây phương, lúc bàn luận chiến sự Ukraine trên TV vài tuần trước, có nói câu đại khái như sau: “Người ta không sợ một đoàn quân sư tử do con cừu chỉ huy mà người ta chỉ sợ một đàn cừu do con sư tử lãnh đạo”.

Ta có thể hiểu rằng, chuyên gia ám chỉ đạo quân hỗn hợp dân-quân Ukraine là một “đàn cừu” được con sư tử Zelensky chỉ huy.

Nhìn lại hai đạo quân thân Mỹ ở Kabul và Sài Gòn. Các chiến binh của hai đạo quân này có nỗ lực chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước của họ hay không? Hai đạo quân này do cừu hay do sư tử chỉ huy?

Theo tôi yếu tố dũng mãnh của cấp chỉ huy chưa đủ để thắng trận.
***

Sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội Afghanistan thân Mỹ ở Kabul, 30 tháng 8 năm 2021, nhiều người đã so sánh với trường hợp sụp đổ VNCH 30 tháng 4 năm 1975. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam, cũng như ở Afghanistan, bằng một “hiệp ước hòa bình”. Sự so sánh đầy ác ý nhưng không phải là không có lý do.

Tại Afghanistan, ngày mà Mỹ chính thức rút quân cũng là ngày quân đội Afghanistan tan hàng và chính phủ thân Mỹ ở Kabul sụp đổ.

Tháng 2 năm 2020, chính phủ Donald Trump thỏa thuận với Taliban về thời khóa biểu và các điều kiện để quân Mỹ rút lui. Người kế nhiệm Joe Biden ra quyết định “Chiến dịch di tản 17 ngày”, thời hạn chót là ngày 31 tháng 8 năm 2021.

Người lính Mỹ cuối cùng vào đến phi trường Kabul thì quân Taliban cũng đã đuổi theo tới cửa cổng phi trường.

Người ta đặt vấn đề, với biết bao nhiêu vũ khí cùng quân trang, quân dụng của Mỹ để lại, quân đội Afghanistan hầu như không giao chiến với quân Taliban một trận nào. Thấy lính Mỹ rút lui, họ bỏ súng chạy theo. Rốt cục Mỹ phải thương lượng với phe Taliban để cuộc thoái binh diễn ra không tiếng súng.
***

Chiến tranh Việt Nam, với Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ thỏa thuận với CSVN để được “kết thúc chiến tranh” và đem lại “hòa bình trong danh dự” cho nước Mỹ. Trong vòng 60 ngày, quân Mỹ phải rút khỏi Việt Nam.

Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam ngày 29 tháng 3 năm 1973. 

Tương tự quân Afghanistan, Mỹ cũng để lại cho VNCH nhiều vũ khí tối tân cùng quân trang quân dụng.

Trong thời gian hơn hai năm 1973-1975, quân đội VNCH một mình phải đối phó trước một đạo quân thiện chiến (gồm Việt Cộng, tức quân Mặt trận Giải phóng Miền Nam và bộ đội miền Bắc) mà đại cường Mỹ đứng đầu thế giới (cùng với đồng minh) đánh không lại. Nên biết, người Mỹ đổ 50 vạn quân, trang bị vũ khí tối tân, được hỏa lực không quân, thiết giáp, pháo binh yểm trợ… Với chiến phí lên đến cả ngàn tỉ đô la. Trong suốt 8 năm ở Việt Nam, quân Mỹ đã không đánh bại đạo quân CSVN và Mặt trận Giải phóng Miền Nam.

Quân VNCH còn chống quân CSVN và MTGPMN trong hoàn cảnh thế giới gặp khó khăn và phương tiện quốc nội eo hẹp. Năm 1973, Trung Đông đã có cuộc khủng hoảng lớn về dầu hỏa. Giá dầu thế giới tăng vọt lên (đến 10 lần). Quân xa, phi cơ, tàu bè, chiến xa… của Mỹ để lại đa số không sử dụng được. Do thiếu xăng dầu, hoặc do hư hỏng mà thiếu phụ tùng thay thế. Hoạt động của không quân, hải quân gần như tê liệt. Các đơn vị thiết giáp, pháo binh… cũng hạn chế chiến đấu vì thiếu đạn dược và nhiên liệu.
Quân Mỹ bỏ cuộc nhưng quân đội VNCH tiếp tục cuộc chiến tranh do chính người Mỹ đã gây ra (và để lại). Nhiều đơn vị VNCH chiến đấu cho tới khi súng hết đạn. Nhiều tướng lãnh VNCH tự sát. Quân VNCH tháo lui, và thất bại, vì những mệnh lệnh bất cập (như di tản chiến thuật Tây Nguyên) đến từ Dinh Độc Lập. Cuối cùng, cũng từ Dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh yêu cầu quân lính “buông súng” đầu hàng. Sài Gòn sụp đổ ngày 30 tháng 4 năm 1975.
***

Quân đội Afghanistan thân Mỹ đông đảo, trên 300 ngàn quân được vũ trang tận răng. Quân Taliban hay quân chính phủ Kabul thân Mỹ cũng đều là dân Afghanistan. Phải có lý do tâm lý nào đó mà một bên sẵn sàng ôm bom để chết, trong khi bên kia lại không muốn cầm súng bảo vệ quê hương của họ.

Tương tự, quân VNCH cũng như bộ đội miền Bắc, tất cả “máu đỏ da vàng”, giống nhau “một lá gan”. Không thể phê phán bên này can đảm, bên kia hèn nhát.
***

Cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine, bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm 2022, đến nay vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại. Tinh thần chiến đấu của dân và quân Ukraine, dưới sự chỉ huy của tổng thống Zelensky, chứng minh được hiện tượng “châu đấu đá nghiêng xe”. Quân đội Nga với một lực lượng áp đảo so với quân Ukraine, hỏa lực cũng như nhân sự. Các nhà quan sát quốc tế đánh giá tương quan lực lượng hai bên với tỉ số 10/1. Không ngoại lệ, tất cả đều tiên đoán Kiev sẽ sụp đổ trong vài ngày.

Thực tế trên chiến trường chứng minh tất cả đều đoán sai. Tinh thần chiến đấu của dân và quân Ukraine thể hiện như là con gà mẹ dũng mãnh, liều chết, quyết chiến đấu chống lại con diều hâu hung tợn để bảo vệ đàn con. Các nhà quan sát quốc tế đồng thuận ở một điều là, yếu tố Zelensky đóng vai trò cốt lõi.

Dân và quân Ukraine, nếu không có một Zelensky cực kỳ thông minh, biết vận dụng mọi cơ hội để được sự ủng hộ của quốc tế, lúc sứ quán Mỹ đề nghị di tản Zelensky và gia đình, ông này trả lời sứ quán Mỹ rằng: “Chúng tôi cần vũ khí chớ không cần một chuyến taxi”.

Zelensky đã thành công trong việc kích động tinh thần “quốc gia dân tộc” trong toàn thể dân chúng Ukraine, cũng như xiển dương một “quốc gia Ukraine độc lập có chủ quyền” trước trường quốc tế.

Ukraine là một “quốc gia” mới được khai sinh, năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã. Trong khi dân Nga và dân Ukraine có cùng một nguồn gốc, cùng một “nation”.

Không có Zelensky chắc gì dân và quân Ukraine đã có được tinh thần “quốc gia dân tộc” mãnh liệt như hôm nay?

Không có một Zelensky chưa chắc quốc tế đã ủng hộ và viện trợ vũ khí cần thiết để cho Ukraine tự vệ như đã thấy.

Cuộc biểu quyết ở LHQ tháng 3 năm 2022, ta thấy, đại đa số các quốc gia lên án Nga “xâm lược” Ukraine. Dư luận quốc tế, ngay cả Tổng thống Biden, lên án Putin phạm tội ác diệt chủng (crime génocide). Dư luận quốc tế, thông qua ý kiến một cựu thẩm phán Tòa Hình sự Quốc tế, cũng lên án quân Nga phạm tội ác chiến tranh (crime de guerre).

Trở lại câu nói của chuyên gia quân sự dẫn trên, so sánh ba quân đội, đâu là cừu, đâu là sư tử?

Ý kiến của chuyên gia nhấn mạnh ở tinh thần chiến đấu của cấp chỉ huy.

Mỹ vào Việt Nam cũng như vào Afghanistan. Mạnh vì gạo bạo vì tiền, người Mỹ trực tiếp hay gián tiếp, chỉ huy tất cả. Cấp chỉ huy Mỹ có phải là những con sư tử dũng mãnh hay không? Chuyện này hãy để sử gia Mỹ thẩm định.

Rõ ràng quân đội thân Mỹ ở Kabul, những ngày cuối Mỹ rút quân, đã tan đàn rã nghé. Họ không có tinh thần chiến đấu.

Còn quân VNCH?
Quân VNCH thừa dũng cảm nhưng theo tôi, yếu tố dũng cảm của đạo quân không đủ để một bên giành chiến thắng.

Vấn đề đặt ra, VNCH và Afghanistan có sụp đổ hay không, nếu dàn lãnh đạo VNCH (và Afghanistan) có một nhân sự bản lĩnh như Tổng thống Zelensky?
***

Trường hợp Việt Nam, ý kiến cá nhân tôi, từ khi hiệp định Genève 1954, số phận của VNCH đã là “chiến trường”, sinh ra nếu không chiến thắng ắt là hủy diệt. Người Mỹ lật đổ ông Diệm năm 1963, sau đó đổ quân vào trực tiếp mở đầu cuộc chiến tranh. Sự tồn tại của VNCH đã bắt đầu tính ngày.

Hiệp định Genève 1954, các đại cường cam kết dân tộc (nation) Việt Nam là một khối duy nhứt, không thể phân chia. Lãnh thổ Việt Nam ba miền Bắc, Trung, Nam thuộc về một quốc gia Việt Nam duy nhứt. Vĩ tuyến 17 chỉ là “lằn ranh quân sự tạm thời”.

VNCH cùng số phận với Đài Loan - Lục địa và Nam Hàn - Bắc Hàn, là những quốc gia bị phân chia (Etats divisés - States Divided). Khi mà một bên có thể vịn lý do thống nhứt (hay giải phóng) đất nước để gây chiến tranh thì bên kia (như VNCH) trước sau cũng sẽ trở thành bãi chiến trường.

Miền Nam và Mỹ “đồng sàng dị mộng” về nội dung Hiệp định Genève 1954. Mỹ không nhìn nhận nội dung Hiệp định vì đã bỏ qua “quyền tự quyết của nhân dân miền Nam”. Tức là Mỹ hàm ý miền Nam đã là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”. Phía Quốc gia Việt Nam, Bảo Đại làm quốc trưởng, lại không nhìn nhận Hiệp ước vì điều khoản “chia đôi đất nước”. Tức là Bảo Đại muốn một Quốc gia Việt Nam bao gồm cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

Năm 1965, vịn vào “biến cố vịnh Bắc Việt”, Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Mỹ còn “đồng sàng dị mộng” với tất cả các đồng minh cật ruột.

Trong lúc Tổng thống Johnson tuyên bố, “chúng ta sẽ không thất trận. Chúng ta sẽ không thối chí”, thì quan điểm của thủ tướng Wilson nước Anh (tháng 2 năm 1965), “chỉ có sự tôn trọng toàn diện các điều ước của hiệp định Genève mới đưa tới sự đình chỉ cuộc chiến tranh, do đó chấm dứt cuộc xâm lăng miền Nam do CS miền Bắc chủ trương”. Tổng thống De Gaulle nước Pháp (tháng 7 năm 1964) biểu lộ lập trường về một hội nghị mới, tương tự Hội nghị Genève với những thành phần tham dự trước kia để tổ chức một cuộc tổng tuyển cử cho Việt Nam… Tức De Gaulle cũng nói về việc tôn trọng Hiệp định Genève 1954…

Phía Cộng sản miền Bắc, qua tuyên bố của Phạm Văn Đồng 8 tháng 4 năm 1965, lập trường tương đồng với Anh và Pháp: Tôn trọng Hiệp định Genève 1954.

Riêng VNCH, thủ tướng Phan Huy Quát ngày 1 tháng 2 năm 1965 có tuyên bố: “Cuộc chiến đấu của VNCH rõ ràng là một trường hợp tự vệ chính đáng, chỉ có mục đích đập tan quân cộng sản xâm lăng…”.

Lập trường của VNCH và Mỹ, trước việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam, đã không được sự ủng hộ của đồng minh và dư luận quốc tế.

Vậy thì, làm cách nào Zelensky, giả sử có tư cách lãnh đạo tối cao VNCH, có thể vận động LHQ để lên án miền Bắc “xâm lược” miền Nam?

Vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, các vụ pháo kích bừa bãi vào chợ búa, trường học, các vụ ám sát, đặt mìn… làm cách nào để LHQ lên án CSVN vi phạm “tội ác chiến tranh”?

Điều quan trọng hơn hết, làm cách nào để thuyết phục quốc tế viện trợ vũ khí cho VNCH “tự vệ”, sau khi Mỹ rút?

Không có cách nào hết. Hiệp định Paris 1973 đã trói tay tất cả. Bởi vì theo Hiệp định này Mỹ nhìn nhận nội dung Hiệp định Genève 1954, nhìn nhận “Nước - Nation” Việt Nam bất khả phân chia và lãnh thổ Việt Nam thống nhứt ba miền.

Luật quốc tế định nghĩa “xâm lược - agression”, quốc gia này đem quân xâm chiếm lãnh thổ quốc gia kia. Nam và Bắc Việt Nam cùng một “nation - dân tộc”, cùng một lãnh thổ Bắc, Trung, Nam, bất khả phân chia. Hiển nhiên không có vấn đề “xâm lược”.

Luật quốc tế cũng ngăn cản việc một quốc gia can thiệp vào nội bộ của một quốc gia khác. Mọi sự viện trợ của một quốc gia nào đó cho VNCH, sau khi Mỹ rút, đều vi phạm luật quốc tế.

Từ khi đất nước chia đôi, các thế hệ lãnh đạo VNCH chưa bao giờ xác định được “tinh thần quốc gia dân tộc” là gì, có ý nghĩa thiêng liêng ra sao.

Họ không xác định được vì Hiến pháp VNCH ghi rõ lãnh thổ Việt Nam từ “Nam Quan tới mũi Cà Mau”. Quốc gia Việt Nam bao gồm luôn miền Bắc.

Chiến sĩ VNCH chiến đấu đơn thuần vì lý do “chống cộng sản xâm lược” chớ không nhằm “bảo vệ chủ quyền quốc gia”, “bảo vệ dân tộc VNCH” hay “bảo vệ lãnh thổ VNCH” như trường hợp Ukraine với Zelensky.

Từ sau năm 1954, các lãnh đạo VNCH đã bỏ qua nhiều cơ hội phòng ngừa chiến tranh, qua cách nương theo lập trường của Mỹ, qua việc tuyên bố miền Nam là quốc gia độc lập (từ vĩ tuyến 17). Năm 1955 ông Diệm trưng cầu dân ý lật đổ Bảo Đại nhưng ông Diệm không trưng cầu dân ý về một “Nam Việt dân quốc”.

Ông Diệm bị giết năm 1963, trong lúc đang vận động thống nhứt đất nước với miền Bắc. Sau này, ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu… cũng đều bỏ qua cơ hội phòng ngừa chiến tranh bằng cách tuyên bố quốc gia độc lập. Đài Loan hiện nay cũng muốn tuyên bố Đài Loan độc lập, mục đích để tránh việc lục địa “thống nhứt đất nước”.

Việc này để lại hệ quả sâu xa. Ngoài việc dành cho phía CS miền Bắc quyền gây chiến tranh để “thống nhứt đất nước” (và giải phóng dân tộc), còn có vấn đề khích động tinh thần “quốc gia dân tộc” trong khối dân chúng miền Nam, cũng như quân đội VNCH.

Rốt cục, VNCH tồn tại hay không tùy thuộc vào ý chí dân miền Nam có sẵn sàng hy sinh để bảo vệ “lối sống” khác biệt của mình hay không. Rõ ràng người dân và quân lính miền Nam đã không ý thức được ở đâu là quyền và lợi ích của họ trong công cuộc bảo vệ miền Nam độc lập, không cộng sản.

Số phận VNCH đã định trước. Bất kể cấp chỉ huy can đảm tới mức nào và quân đội dũng mãnh ra sao. Bất kể khi VNCH (từ 1973) có một Zelensky lãnh đạo hay không. Bắn hết đạn, quân VNCH ắt phải thua.

Nguyên nhân do dàn lãnh đạo chính trị VNCH, tất cả đều thiếu tầm nhìn.
***

Trường hợp Afghanistan. Đây chỉ là một “quốc gia tình cờ”, một loại “quốc gia trái độn - etat tampon”, không phải là một thứ “Etat-Nation” (Dân quốc, quốc gia thành hình trên một khối dân tộc có cùng ngôn ngữ, nguồn gốc, văn hóa và lịch sử. Thí dụ như Việt Nam). Afghanistan được thành hình do ý chí của Anh và Nga.

Lãnh thổ Afghanistan được “vẽ trên bản đồ”, trong văn phòng, bất chấp thực tế khu vực này bao gồm nhiều bộ tộc có tiếng nói, nguồn gốc, tập quán khác biệt nhau, thậm chí thù nghịch với nhau. Gộp họ lại tổ chức thành một quốc gia đã khó. Vấn đề dân chủ hóa lại càng khó.

Vì vậy, các bộ tộc ở Afghanistan không có chung một tinh thần “Quốc gia Qân tộc - Etat Nation” mà chỉ có niềm tin vào bộ tộc và tôn giáo. Họ sẵn sàng chống đối lẫn nhau, xâu xé lẫn nhau và sẵn sàng bán rẻ “đất nước” để phục vụ cho lợi ích bộ tộc, nếu có cơ hội. Còn các lực lượng khủng bố như Taliban, Al-Qaeda… sẵn sàng “ôm bom” tự sát để bảo vệ niềm tin.

Không có ý thức nào về “quốc gia dân tộc” thì việc cầm súng chỉ là “đánh mướn”. Còn trả tiền thì họ đánh. Hết tiền thì họ buông súng.

Zelensky liệu có thể thống nhứt ý chí các bộ tộc ở Afghanistan hay không? Có hòa giải được niềm tin tôn giáo và lợi ích quốc gia hay không? Rõ ràng là chuyện cực kỳ khó.
***

Trở lại câu nói của chuyên gia quân sự đã dẫn trên. Chuyên gia quân sự này ví Tổng thống Zelensky như một con sư tử. Đúng ra phải nói Zelensky là một con sư tử mạnh mẽ với trí thông minh của một con chó sói đầy kinh nghiệm.

Còn quân đội Kabul tương tự một đàn cừu mà người chỉ huy là con sư tử Mỹ. Con sư tử từ bỏ ngôi vị đầu đàn, hiển nhiên cả đàn cừu không còn can đảm để chiến đấu.

Còn quân đội VNCH, chiến đấu chống lại một đạo quân mà 50 vạn quân Mỹ không đánh lại. Họ chiến đấu trong điều kiện eo hẹp, bị đồng minh bỏ rơi và quốc tế không quan tâm. Họ chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Họ buông súng vì tổng thống ra lịnh họ buông súng.

Họ xứng đáng là đàn sư tử. Điều đáng tiếc, đạo quân sư tử này được lãnh đạo bởi những lớp lãnh đạo “cừu”, nếu không có tầm nhìn thì là phản phúc.

Phe Việt Minh của ông Hồ đứng về phe chiến thắng. Còn phe Quốc gia ở đâu trước sự kiện Đồng Minh thắng Nhật năm 1945?

Về sự kiện vua Bảo Đại “thoái vị”, giao ấn kiếm, biểu tượng quyền uy của Hoàng đế Đại Nam cho đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu. Sử gia Việt Nam thuộc phe Quốc gia biện hộ rằng, Bảo Đại thoái vị là do các báo cáo sai lạc của Khâm sai Phan Kế Toại (Khâm sai: commissaire impérial, là chức quan do vua phong để làm một phận sự nào đó). Sự kiện này kiểm chứng (từ các tài liệu và nhân chứng lịch sử) là đúng.

Nhưng có hai sự kiện khác quan trọng hơn mà không thấy sử gia nào nói tới.

Một là, đó là lực lượng Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo là “đồng minh của phe Đồng Minh chống Nhật”. Tức phe ông Hồ đứng về bên thắng cuộc Thế chiến thứ II.
Việt Minh do có hợp tác với đội OSS của Mỹ (OSS là tiền thân của CIA, thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược của Mỹ) từ khi Mỹ tuyên bố chiến tranh với Nhật. Đội quân này (có huấn luyện bộ đội Việt Minh) cùng hoạt động trên vùng biên giới Việt-Trung, mục đích yểm trợ các lực lượng chống Nhật ở vùng Hoa Nam.

Thời cơ đưa đẩy, lực lượng Việt Minh của ông Hồ đứng về “phe chiến thắng” trong Thế chiến Thứ hai.

Qua tài liệu phỏng vấn GS Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990), sáng lập đảng Tân Đại Việt, do GS Nguyễn Mạnh Hùng, Giáo sư Chính trị học, Trường Đại học George Mason, thực hiện tại Houston, Hoa kỳ năm 1987. Tài liệu này được GS Hùng viết lại và công bố trên trang web cá nhân ngày 24 tháng 6 năm 2022. Nguyên văn dẫn lại như sau:

“Vấn đề quan trọng nhứt là vấn đề Phan Kế Toại. Bởi vì con Phan Kế Toại là phe Cộng Sản. Hai người, tên là Phan Kế Ninh – một người tên Phan Kế Ninh, một người Phan Kế An hay gì tôi không nhớ rõ lắm. Nhưng mà hai người con Phan Kế Toại là cán bộ Cộng Sản, thành ra nó làm cho ông Phan Kế Toại nghĩ là Cộng Sản rất mạnh. Bởi vì nó đã mang những truyền đơn của Việt Minh nó bỏ trong phòng ngủ của ông Phan Kế Toại — là Khâm sai. Mà trong tất cả mấy gian phòng đều bỏ hết. Thành ra ông ông Phan Kế Toại yên trí là Việt Minh trong lúc đó, ông lên văn phòng của ông, ông nói là đến phòng của ông mà nó còn vào được thì nó phải mạnh ghê lắm. Vì thế cho nên ông Phan Kế Toại đã thiên về vấn đề đi theo Cộng Sản từ lúc đó. Và chính cái báo cáo của ông làm cho Bảo Đại phải phải bị lay chuyển mà chấp nhận thoái vị”.

Cũng theo GS Huy (tài liệu đã dẫn): “Báo cáo thiên vị Việt Minh của ông khiến Bảo Đại từ chức, tạo cho Việt Minh tư cách hợp pháp chính trị. Tính cách hợp pháp này và tư cách là “đồng minh của Đồng Minh” làm các đảng phái Quốc Gia bị lép vế trước và sau ngày 19/8. Tư cách này không còn nữa sau khi Pháp trở lại miền Nam”.

Tức là theo GS Huy, nguyên nhân thoái vị của Bảo Đại gồm hai lý do: 1/ Báo cáo của Phan Kế Toạt thổi phồng lực lượng Việt Minh đông đảo hơn phe Quốc gia và 2/ Việt Minh là “đồng minh của Đồng minh”. Tức Việt Minh đứng về "phe chiến thắng".

So sánh với các nhân chứng là lãnh tụ các đảng chính trị như Việt Nam Quốc Dân đảng và đảng Đại Việt (qua các bản phỏng vấn của GS Nguyễn Mạnh Hùng công bố trên cùng trang web) ta thấy nội dung các điều trên không có sai biệt.

Bản báo cáo của Khâm sai Phan Kế Toại (do con cái đã theo Việt Minh) không đánh giá đúng lực lượng của Việt Minh. Theo GS Huy, cùng thời kỳ lực lượng của Đại Việt mạnh hơn Việt Minh.

Dữ kiện từ bài phỏng vấn GS Huy của GS Nguyễn Mạnh Hùng: “Trường Lục quân Yên Bái do Trương Tử Anh lập với huấn luyện viên người Nhật. Trước ngày khởi nghĩa, ông Anh ra lệnh kéo quân từ Yên Bái về Hà Nội và hẹn với Trần Kim Thành của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội kéo quân từ Móng Cái về. Đến Hưng Yên thì bị vỡ đê, cả hai cánh quân đều không về được Hà Nội. Tới nơi thì Việt Minh đã cướp chính quyền”.

Yếu tố “đê vỡ nên không về được tới Hà Nội” so sánh lại thấy có mâu thuẫn với các nhân chứng khác. Dầu vậy, đây là sự kiện không quan trọng làm thay đổi thời cuộc.

Hai là, theo tôi, khiến các lực lượng quân sự của phe Quốc gia không về Hà Nội để “lấp khoảng trống quyền lực” sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, đó là tất cả các phe phái quốc gia đều ủng hộ Nhật.

Sự kiện “vỡ đê” có thể chỉ là cái cớ. GS Huy cũng nhìn nhận rằng, lực lượng của phe Quốc gia không dám chiếm quyền lực là vì lo ngại bị Đồng minh “xử” chung với Nhật.

Tức là phe quốc gia đã chọn đứng về bên thua cuộc.

Nước Ý giờ thứ 25, mặt trận Châu Âu, Đức-Ý đã thua Đồng minh (từ tháng 6-1945) rồi. 

Nhưng đến tháng 8, thấy Nhật sắp thua, Ý bèn "tuyên bố chiến tranh" với Nhật. Mục đích chỉ để "đứng về phe thắng trận". Nước Nga cũng vậy. Vấn đề là phe Quốc gia không ai thấy (biết) sự việc này để chọn phe.

Phe quốc gia mất "chính nghĩa" từ thời điểm này.

Về tuyên ngôn độc lập 12-3-1945 của Bảo Đại

Sau khi “đảo chánh” Pháp thì Nhật trả độc lập “Đế quốc Việt Nam” cho Bảo Đại. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại trao “tuyên ngôn độc lập” cho đại diện Nhật là Đại sứ Yokoyama. Nội dung Tuyên ngôn có đoạn:

“Chiếu tình hình thế giới nói chung và tình hình Á châu nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp được bãi bỏ và đất nước thu hồi độc lập chủ quyền quốc gia” (CRVN, page 162).

Câu hỏi đặt ra là, Tuyên ngôn này có “giá trị pháp lý” hay không? Theo tôi, một bên có thể đơn phương hủy bỏ kết ước, vì một lý do nào đó, như vì “hiệp ước bất bình đẳng”.
Trường hợp Việt Nam phức tạp vì hai đế quốc Pháp và Trung Hoa (nhà Thanh), hai đế quốc “bảo hộ” Việt Nam, có ký Hiệp ước Thiên Tân 1885. Nội dung hiệp ước, nhà Thanh đồng ý “nhượng” Việt Nam lại cho Pháp.

Mặt khác, theo các nguyên tắc “debellatio” trong chiến tranh, bên chiến thắng có quyền quyết định mọi tài sản, kể cả lãnh thổ và dân chúng của phe chiến bại.

Sau khi Nhật ký văn kiện đầu hàng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật phải tuyên bố từ bỏ tất cả các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm đóng trước kia. Ngay cả lãnh thổ nước Nhật cũng phải giao cho Mỹ quản lý. Riêng các chính phủ do Nhật lập nên ở các vùng lãnh thổ (như Bảo đại ở Việt Nam) thì không được nhìn nhận.

Tức là “Đế quốc Việt Nam” của Bảo Đại là một thực thể chính trị không có tính chính danh và không được quốc gia nào nhìn nhận. Điều này khiến cho “danh nghĩa pháp lý"của phe Việt Minh khi nhận chiếu thoái vị của Bảo Đại bị khuyết tật.

Ông Hồ không thể nhận chủ quyền Đế quốc Việt Nam do Bảo đại trao cho. Nguyên tắc luật học “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.

Về “giải pháp Bảo Đại”

Một dấu ngoặc nói về thủ tục “thoái vị”. Bảo Đại có thể “thoái vị” và “nhường ngôi” cho một vị hoàng thân quốc thích nào đó của nhà Nguyễn. Nhưng về nguyên tắc thì Bảo Đại không thể đơn phương tự lấy quyết định giao ấn kiếm, biểu tượng quyền lực nhà Nguyễn, giao cho một người hay một tổ chức không thuộc hoàng gia. Nhứt là khi hành vi này kết liễu triều đại nhà Nguyễn. (Tức là Bảo Đại tự kết liễu nền phong kiến chứ không do CSVN đánh đổ như họ đã tuyên truyền).

Tháng 4 năm 1949, Bảo Đại lại nhận lời Pháp, đứng ra lãnh đạo "Quốc Gia Việt Nam - Etat du Viet Nam". Bảo Đại trở thành người thiếu lương thiện. Đã giao quyền lực "Đế quốc Việt Nam" (tức giao chủ quyền Việt Nam) tháng 8 năm 1945 cho ông Hồ rồi. Lý do gì lại ra lãnh đạo "Quốc gia Việt Nam" tháng 4 năm 1949 để cạnh tranh với ông Hồ?

Bảo Đại tự biện: “Bởi vì từ 1946 đến 1949, đó là sự trống rỗng chính trị toàn diện. Nếu tôi chưa xuất hiện, con người vốn sợ sự trống rỗng, thì nước Việt Nam sẽ đi về đâu?” (Dẫn từ Con Rồng Việt Nam, trang 354).

Bảo Đại làm như Việt Nam hết người. Đây là sự lựa chọn của người Pháp. Còn gọi là “giải pháp Bảo Đại”. Đơn giản vì Bảo Đại dễ bảo, thiếu kiến thức chính trị và nhứt là "ham chơi" hơn việc "trị quốc".

Thực tế thì cũng có những giải pháp khác, như giải pháp Bảo Long (với hoàng hậu Nam Phương đóng vai nhiếp chính) hay giải pháp Vĩnh San (vua Duy Tân).

Quốc gia Việt Nam chỉ có một. Quyền lực chủ tể (chủ quyền) của Việt Nam cũng chỉ có một.

Nếu so sánh được, chủ quyền quốc gia Việt Nam như “sổ đỏ”, tờ chứng nhận chủ quyền của triều đại nhà Nguyễn trên ngôi nhà Việt Nam. Bảo Đại đã tự tiện giao “sổ đỏ” này cho Việt Minh rồi (ngày 30 tháng 8 năm 1945). Sau đó Bảo Đại nhận lại “sổ đỏ” chứng nhận sở hữu ngôi nhà Việt Nam khác, lần này do Pháp cấp.

Đã giao cho ông Hồ "Đế quốc Việt Nam" rồi, thì "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại sau này là quốc gia Việt Nam nào?

Hai cuốn “sổ đỏ” phải có một là “giả, ngụy”. Sổ giả là sổ nào?

Vì vậy phía CSVN mới có cớ gọi "quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại là "ngụy". Các nhà nước VNCH kế thừa Quốc gia Việt Nam sau này, vì vậy cũng đều là "ngụy".

Phe Quốc gia đã có thể những làm điều gì để “giải Ngụy”?

Không ai phủ nhận cá nhân cụ Trần Trọng Kim cũng như thành quả của chính phủ Trần Trọng Kim sau 6 tháng làm việc. Nhưng càng củng cố tính chính đáng của chính phủ Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam của Bảo Đại thì phe quốc gia càng sa lầy vào vũng bùn “ngụy” do CS gài ra.

Vấn đề là “giải Ngụy” bằng cách nào? Đến nay, 49 năm lưu vong, vẫn chưa thấy sử gia, nhân sĩ quốc gia nào giải được.

(Tác giả Trương Nhân Tuấn đặc biệt gởi lời trân trọng cám ơn đến GS Nguyễn Mạnh Hùng vì các tài liệu đã công bố. Cũng xin cáo lỗi cùng GS Hùng vụ tự tiện dẫn các tài liệu mà không xin phép trước).

Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975

Gần nửa thế kỷ qua, những ngày tháng tư hàng năm bao giờ cũng là thời khoảng mang đến cho nhiều lớp người Việt Nam những kỷ niệm khó quên, nhiều ám ảnh nặng nề của quá khứ. Chúng được mở đầu bằng “Ngày nói dối” (1.4) và kết thúc bằng thời điểm 30.4 làm thay đổi số phận của hàng triệu con người.

Lớp người từng trải qua những ngày tháng tư ấy nay hầu hết đã thuộc về thành phần “thất, bát, cửu thập cổ lai hy”. Một số người đã bị thời gian loại ra khỏi sân khấu cuộc đời, số còn lại, người thì nghễnh ngãng, người phải vật lộn với nhiều căn bệnh mãn tính lăm le vùi dập kiếp người. Một thiểu số còn lưu giữ trong ký ức của mình những hình ảnh cũ trong tâm thế không vui, cũng chẳng buồn, coi như đó là những màn biến ảo, đầy hỷ nộ ái ố, trong một vở trường kịch kéo dài.

Những câu chuyện vụn vặt này được kể ra không phải để trách phiền quá khứ, hay nung nấu thêm những tình cảm đã một thời dằn vặt mỗi con người. Kể lại chúng chỉ để bổ sung vào bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam sau 1975, vì chúng là một phần không thể thiếu của lịch sử.

Tại miền Nam, sau tháng 4.1975, trùng trùng lớp lớp những con người cùng sẻ chia với nhau một số phận, cùng nếm chung với nhau sự cay đắng của kiếp người, nhưng nhiều năm sau, khi trở lại với cuộc sống đời thường, mỗi người một hoàn cảnh, một tâm trạng, một cái nhìn riêng rẽ về cuộc sống, và cũng có thể từ đó, nhiều sự phân hóa bắt đầu.

Người kể chuyện hôm nay rất yêu cái chất “Ta về” của một Tô Thùy Yên, coi những gì mình đã trải qua sau tháng 4.1975 là một “kiếp nạn”, trở về gia đình với một tâm trạng tuy có buồn đau nhưng không oán hận cuộc đời.

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.

Vì thế, hồi ức này chỉ là sự nhắc nhở lại những kỷ niệm vui buồn của một phận người sau khi cuộc chiến kết thúc, nó không được sử dụng vào những mục tiêu chính trị và không nhằm nói lên những quan điểm cực đoan trước một quá khứ đã lùi sâu nửa thế kỷ. Tất nhiên, người viết cũng mong mỏi người đọc với một tâm thế như vậy, bình tâm và không cực đoan trong các bình luận của mình.

I) BƯỚC VÀO CUỘC ĐỜI MỚI

Những ngày sau 30.4.1975, quang cảnh của thành phố Sài Gòn và hầu hết các tỉnh dưới vĩ tuyến 17 đã làm yên lòng những người chiến thắng. Hàng triệu con người từng cầm súng chiến đấu hay điều hành bộ máy cầm quyền cũ chấp nhận sự thay đổi số phận một cách an nhiên, họ rùng rùng đi trình diện đăng ký với mong mỏi làm lại cuộc đời, dù biết rằng sẽ không ít chông gai. Họ tham dự những buổi học ngắn ngày tại địa phương để nắm bắt được ít nhiều quy luật của một xã hội mới, hoặc với những người ở cấp bậc, chức vụ cao hơn, sự tập trung “học tập cải tạo” (HTCT) với thời gian được tin là sẽ kéo dài 10 ngày hay một tháng cũng được tuân thủ ngoài sự dự tưởng của nhiều người.

Khoảng thượng tuần tháng 5.1975, mình thơ thẩn trước cổng Bộ Nội vụ cũ, định len lách vào để trình diện đăng ký, cốt có được cái giấy chứng nhận có giá trị duy nhất như một thẻ thông hành. Chạm mặt người bạn đồng môn Nguyễn Văn Thọ, được bạn đưa ra một sáng kiến bất ngờ: bọn mình là Phụ tá Tỉnh trưởng kinh tế (xếp ngang Phó Tỉnh trưởng hành chánh) trong hệ thống của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo (Phó Thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm Bộ trưởng Canh nông), trình diện chi ở đây, hãy qua Ban quân quản Nông nghiệp (tại Bộ Canh nông cũ) mà trình diện!

Thế là chiếc xe đạp cà tàng đưa hai anh quan chức ngã ngựa chạy cà rịch cà tang qua Bộ Canh nông (cũ) ở đầu đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, trình diện với Ban Quân quản Nông nghiệp, lúc bấy giờ còn nằm trong tay các cán bộ tập kết người miền Nam. Trình diện xong, bọn mình được xếp vào thành phần chuyên viên của ông Hảo, được nhận vào làm việc tại văn phòng cũ của ông Hảo chung với Bộ Canh nông, với thu nhập theo quy chế tạm thời lúc bấy giờ:

- Công chức cũ hạng A (Kỹ sư, Đốc sự ...): 23.000 đ/tháng
- Công chức cũ hạng B (Cán sự, Tham sự, Thư ký ...): 20.000 đ/tháng
- Công chức cũ hạng C (Tùy phái, tài xế ...): 17.000 đ/tháng (Giá tham khảo vào tháng 5.1975: 160.000 đ/ 1 lượng vàng)

Vào thời điểm này, các lớp học tại địa phương kéo dài 3 ngày dành cho hạ sĩ quan và binh sĩ của chế độ cũ được tổ chức khắp nơi; sau 3 ngày, họ “hồ hởi, phấn khởi” (tiếng mới, không có tại miền Nam trước tháng 4.1975), cầm tấm giấy chứng nhận đi làm lại cuộc đời.

Khoảng 10.6.1975, Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định ban hành thông cáo yêu cầu đi trình diện tập trung cải tạo các thành phần sau: công chức từ chức vụ Phó Quận, Phó Ty đến Phó Tổng thống, sĩ quan từ cấp Thiếu tá trở lên. Thông cáo ân cần nhắc nhở các đương sự: “mang theo tiền bạc, vật dụng đủ dùng trong một tháng”. Mỗi đương sự phải đóng cho cơ quan tổ chức học tập hơn 13.000 đ là tiền nuôi ăn của một tháng đó.

Khoảng ngày 11 hay 12.6.1975, anh Ba Lộc, Trưởng ban quân quản Nông nghiệp, triệu tập các viên chức cũ thuộc diện tập trung cải tạo với lời nhắc nhở mà người viết bài này vẫn còn nhớ rõ: “các anh nên đi trình diện học tập, vì việc này rất có lợi cho các anh!

”Cái “lợi” đó, trong suy nghĩ của mọi người, chính là cái giấy chứng nhận đã hoàn thành thời gian cải tạo, để có thể tạo dựng lại cuộc đời từ con số không, hoặc tốt hơn nữa, là sự trở lại cơ quan nông nghiệp mình đã từ đó ra đi.

Cũng theo thông cáo trên, thời gian trình diện cải tạo dành cho hai thành phần sĩ quan và viên chức trên là các ngày 13,14 và 15.6.1975. Sĩ quan trình diện ở nhiều nơi, riêng thành phần dân sự thì ngày 13 và 14.6 tại trường Gia Long, ngày 15.6 tại trường Trưng vương, gần Thảo cầm viên (Sở thú).

Một sự tình cờ đã chi phối khá nhiều vào lịch trình diện này: ngày 13.6 rơi vào “ngày thứ sáu 13”, một điều kỵ của người Công giáo; còn ngày 14.6 lại là ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, người Phật giáo ít ai quên câu: Mùng năm, mười bốn, hăm ba – Đi chơi cũng thiệt huống là đi buôn. Phải chăng sự tình cờ này đã biến ngày 15.6 còn lại thành ngày “ám ảnh” của mọi người?

Mình thì không dị đoan, song vì lưu luyến hai cô con gái còn quá nhỏ (6 và 3 tuổi) nên cũng chờ đến ngày cuối cùng mới đi trình diện.

Sáng ngày hôm ấy, dòng người xếp hàng chờ “nhập trường” Trưng vương trải dài từ cổng Thảo cầm viên đến đường Hồng Thập tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), ban tổ chức cho vào từng nhóm một để còn có thì giờ lập nhiều thủ tục khác ở trường. Tiếng là gọi đến cấp Phó Tổng thống, song trong thành phần trình diện, chỉ có một ông cựu Chủ tịch Hạ viện (Nguyễn Bá Lương) và một ông cựu Chủ tịch Tối cao pháp viện (Trần Minh Tiết), từng là hai nhân vật thứ 4 và thứ 5 của chế độ. Riêng với thành phần dân biểu, nghị sĩ, một số người - tự nhận hoặc được báo chí xếp hạng - thuộc “thành phần thứ ba” như Lý Quý Chung (Chánh Trinh), Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba... thì được miễn đi học, sau đó lại còn được phép phát hành tờ báo Tin Sáng, và chỉ “hoàn thành nhiệm vụ” vào đầu thập niên 1980.

Với các cựu dân biểu, nghị sĩ khác phải đi HTCT, chuyện cũng chưa hết. Họ xoay được từ Ban quân quản Quốc hội một tờ giấy giới thiệu, có lẽ nhằm giúp họ được ... vào tù sớm và nhanh hơn, nên trong lúc dòng người xếp hàng có thứ tự đang nôn nóng đợi đến phiên mình thì khoảng một chục ông dân cử ấy từ đâu chen ngang vào, xuất trình tờ giấy giới thiệu cầm trên tay như tấm bùa hộ mệnh.

Sự xuất hiện bất ngờ của đám người bon chen này đã gây ra một phản ứng sôi nổi của đám đông, căng thẳng đến mức mấy cán bộ bảo vệ trẻ xem đây là dịp thử súng tốt nhất. Họ chỉa thẳng mũi súng lên trời, thị uy bằng mấy loạt đạn nhắm vào tàng cây me cổ thụ gần nhất. Một trận mưa lá me rơi lên đầu các sĩ tử, và nếu lúc đó được như bây giờ, đã có smartphone để quay phim hay chụp ảnh, thì đó sẽ là một trong những khung hình đẹp và lãng mạn nhất kể từ tháng 4.1975!

Cuối cùng thì mọi việc cũng êm xuôi. Đại đa số “sĩ tử” được nhập trường Trưng vương, lập thủ tục “nhập học”. Một thiểu số không nhỏ bị từ chối vì trường đã quá đông, mà trời sắp tối, phải lủi thủi trở về nhà trong tâm trạng bất an.

Mà họ có lý khi bất an như vậy! Vì tuy chỉ mới sau hơn một tháng mà chính quyền nhân dân đã hoạt động có hiệu quả. Với tai mắt nhân dân, ngay trong đêm 15.6 đó, hầu hết những người không được cho “nhập trường” đều bị gõ cửa nhà và bị dẫn giải đi, với cái tội “trốn trình diện cải tạo”. Mặc cho đã thanh minh thanh nga với mọi lý do lý trấu, họ bị tống hết vào trại giam Chí Hòa, cung cấp bữa tiệc máu bất ngờ cho đám muỗi đói, để rồi sáng hôm sau, sau khi các cơ quan đều biết rõ về lý do bất khả kháng của họ, họ mới được thả về. Cuối tháng 6, họ được lệnh đi trình diện bổ sung, theo diện HTCT 30 ngày, cùng lúc với các sĩ quan cấp úy, được thông báo phải “mang theo tiền bạc và vật dụng đủ dùng trong 10 ngày”!

II) NHỮNG ĐOÀN XE GIỮA ĐÊM HÔM KHUYA KHOẮT

Với số tiền ăn đã đóng hơn 13.000 đồng cho một tháng, ngay buổi chiều nhập trường Trưng Vương, mọi người đã nhìn thấy nhiều chiếc xe của nhà hàng Á Đông và nhà hàng Đồng Khánh chở thức ăn tới. Bữa ăn sang trọng gấp 3, gấp 4 một bữa ăn thông thường hàng ngày! Sự yên tâm, phấn khởi nhờ thế mà tăng lên.

Khoảng 10 giờ 30 tối hôm sau, 16.6.1975, mọi người được lệnh tập trung hết dưới sân trường Trưng Vương, mang theo đầy đủ tư trang, vật dụng. Sau những thông báo và quy định cần thiết về trật tự, sự im lặng cần thiết trong hành trình sắp tới, mọi người lặng lẽ leo lên những chiếc xe GMC bít bùng, khung xe được bao bọc bởi những tấm bạt nối với nhau, để lộ nhiều chỗ hở, giúp người trong xe có thể nhìn thoáng ra ngoài.
Xe bắt đầu lăn bánh vào khoảng 11 giờ khuya, trong một thành phố ngủ yên như đã chết. Chúng tôi nhìn vẻ im vắng của nó qua những khe hở của tấm bạt phủ trùm xe, biết rằng xe đang chạy về hướng Biên Hòa. Rồi xe rẽ phải về hướng Vũng Tàu. Có những tiếng thì thào: Chẳng lẽ họ sẽ đưa mình xuống tàu?

Câu hỏi được sớm trả lời khi xe đột ngột dừng lại và rẽ trái, đi lên một khoảng dốc dài. Rồi xe dừng hẳn, tắt máy. Chúng tôi nhảy xuống xe. Một vài người chợt nhận ra đây từng là “Làng cô nhi Long Thành”, nơi mà trước đó vài năm, cứ vào mỗi chủ nhật, nhiều người kéo nhau lên để thực hiện công tác thiện nguyện đối với hàng ngàn em cô nhi bất hạnh. Người điều hành làng cô nhi lúc đó có cái tên mộc mạc là “ông Tư Sự”, sau nghe nói là người của 'bên thắng cuộc'.

Làng cô nhi Long Thành đêm 16.6 ấy chỉ còn là một khu vực hoang vu, những dãy nhà dài trống hoác, im lìm. Theo sự sắp xếp đội, tổ khi chúng tôi vào trình diện ở trường Trưng vương, mỗi người được phân vào một dãy nhà dài độ 60 mét, ngăn thành 4 căn, dãy đầu tiên mang số 1, còn gọi là A16, dãy số 2 là A14, và cứ như thế tiến dần lên. Tiếp nhận chúng tôi là những cán bộ miền Nam tập kết, vui vẻ, thân thiện. Tại nhà 2, nơi tôi đến, anh cán bộ bỏ tiền túi ra đi mua những khoanh kẽm giăng dọc theo nhà để mọi người có chỗ máng dây mùng.

Tiếc là những con người vẫn còn mang dáng dấp chơn chất, dễ gần ấy chỉ tạm thời đảm nhận công việc, trong lúc đợi trung ương cử về những cán bộ chuyên trách thuộc Cục quản lý trại giam Bộ Nội vụ. Và ngày ấy đã đến, chỉ sau không đầy một tuần lễ, với những cán bộ mới phần lớn xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa... gương mặt khắc khổ và tiếng nói nặng chịch, khó nghe.

III) HỌC VIÊN HAY TRẠI VIÊN?

Trong khoảng thời gian tiếp sau tháng 6.1975 ấy, không phải mọi việc đều đã rõ ràng. Nhiều sự thực lộ dần ra, nhanh hay chậm còn tùy vào sự tìm hiểu và nhạy bén của mỗi người.

Trước tiên là cách gọi dành cho những sĩ quan, viên chức chế độ VNCH đi "học tập cải tạo" (HTCT) dài hạn. Trong năm đầu tiên, họ được gọi là “học viên”, với cách hiểu họ còn là “nghi can”, chưa thành án. Cũng vì thế, làng cô nhi Long Thành, nơi họ đến học tập, có tên là “Trường 15 NV”, chứ chưa phải là “trại”. NV là cách viết tắt của hai chữ Nội vụ, trường do Cục quản lý trại giam, Bộ Nội vụ, trực tiếp quản lý, phân biệt với phần lớn các trường trại ở các tỉnh, do chính quyền địa phương trực tiếp quản lý.

Trong lúc các tướng tá được sắp xếp ở nhiều trung tâm khác nhau thì tất cả thành phần dân sự được tập trung hết vào trường 15 NV Long Thành (một huyện của tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ). Từ ngày 17.6.1975, nơi đây có gần 3.000 học viên, được chia thành 4 khối:

- Khối 1 đông đảo nhất, gồm công chức hành chánh, thẩm phán, dân biểu, nghị sĩ... Hầu hết “tinh hoa” của chế độ đã bại trận nằm trong khối này, từ ông cựu Chủ tịch Hạ viện, ông cựu Chủ tịch Tối cao Pháp viện, đến ông cựu Tổng trưởng Tài chánh, các dân biểu, nghị sĩ trưởng khối trong Quốc hội…

- Khối 2 gồm thành viên các đảng phái “phản động” từ cấp Phó bí thư quận, huyện trở lên, nhiều nhất là đảng Dân Chủ của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kế đến là các thành viên đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc dân đảng.

Trong khối này có ít nhất hai nhân vật nổi bật nhất.

Người thứ nhất là cụ Vũ Hồng Khanh, người từng lãnh đạo Việt Nam Quốc dân đảng và hợp tác cùng chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống Pháp sau năm 1945. Sau gần 50 năm, mình vẫn còn nhớ hình ảnh của cụ: Búi tóc nhỏ sau gáy, bộ bà ba đen, chiều chiều, cụ hòa vào dòng người đi tản bộ trên “đại lộ hoàng hôn”. Khi đi, cụ hơi cúi người về phía trước, hai bàn tay nắm chặt lại phía sau lưng, rảo bước một mình, không trò chuyện với ai.

Người thứ hai là luật sư Nguyễn Lâm Sanh, trước tháng 4.1975 là Phó chủ tịch Liên minh Á châu chống Cộng (chủ tịch là ông Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng VNCH, sau chết trong một trại cải tạo). Nghe kể rằng trước khi ra khu, luật sư Nguyễn Hữu Thọ có mở chung văn phòng với LS Sanh, khi ra khu, ông Thọ có nhờ ông Sanh chăm sóc giúp gia đình, và nghe đâu ông Sanh từng cho một người con trai của ông Thọ sang Pháp học (?). Những chi tiết này chì là nghe qua lời đồn đãi, còn cần kiểm chứng rõ ràng hơn, xin kể lại với tất cả sự dè dặt.

Đến khoảng tháng 10 năm 1975, Cục quản lý trại giam Bộ Nội vụ cử một đoàn cán bộ đông đảo lên Long Thành để hoàn tất hồ sơ mỗi học viên. Họ chụp ảnh, lăn tay và làm nhiều thủ tục cần thiết khác cho học viên. Nghe đâu ông Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó là Phó Chủ tịch nước, có nhờ người con trai lên theo đoàn công tác, thăm LS Nguyễn Lâm Sanh, kèm theo mấy món quà. Đó cũng chỉ là “nghe đâu” thôi, xin không coi đó là thông tin có căn cứ xác đáng!

- Khối 3 gồm toàn các viên chức thuộc Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, mà theo thông cáo của Ủy ban Quân quản là “thuộc thành phần trung cấp trở lên”. Sự khác biệt trong cách hiểu từ “trung cấp” đã dẫn đến một hệ quả cười ra nước mắt. Người miền Nam lúc ấy hiểu từ công chức “trung cấp” là những người thuộc hạng B, từ ngạch thư ký đánh máy trở lên. Thế là các cô cậu nhân viên đánh máy ở Phủ Đặc ủy rùng rùng đi trình diện học tập cải tạo, một số rất đông là nữ.

Mãi đến khoảng 6 tháng sau, sau khi xem kỹ hồ sơ, biết họ chỉ là những nhân viên thừa hành cấp thấp, Cục quản lý trại giam đã trả tự do cho họ. Trong số những người về đợt này, có con trai anh Nguyễn Đình Xướng, người đàn anh của anh em Quốc gia Hành chánh, chức vụ cuối cùng là Tổng Quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống, mà người viết bài này từng có một bài viết dài về anh trên Facebook.

Vẫn còn nhớ rõ hình ảnh anh Xướng đứng ở đầu nhà gọi nhắn theo cậu con trai hối hả đi theo đoàn người ra cổng trại trong ngày được trả tự do ấy.

Trong số các viên chức “trung cấp” thật sự của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo trình diện cải tạo thuộc khối 3, có khá nhiều người từng tốt nghiệp khóa Cao học Hành chánh. Trong một dịp họ sắp tốt nghiệp, Phủ Đặc ủy quá cần người, đã được phép Phủ Thủ tướng qua Học viện Quốc gia Hành chánh chọn nhiều người trong số họ để đưa sang Phủ làm việc ngay sau khi họ tốt nghiệp. Đa số những người này bị chọn ngoài ý muốn. Riêng người viết bài này có một người bạn đồng môn, đồng song, làm Chánh Sở Bắc Việt vụ tại Phủ nói trên, cái tên sở nghe qua đã lạnh người!

- Khối 4 gồm các sĩ quan cảnh sát từ cấp Thiếu tá trở lên. Trước năm 1972, khi ngành cảnh sát chưa chuyển qua chế độ cấp bậc như quân đội, họ là những viên chức thuộc ngạch Quận trưởng cảnh sát (có bằng Cử nhân luật trở lên), hoặc Biên tập viên cảnh sát có thâm niên. Đại đa số họ thuộc phái nam, chỉ có một số rất ít là nữ, trong đó có nữ Thiếu tá NTT, biệt đội trưởng biệt đội Thiên Nga, một tổ chức đặc biệt gồm toàn nữ trong guồng máy cảnh sát VNCH lúc bấy giờ.

Khối 1 đông hơn cả, được phân cho khoảng 6 dãy nhà, từ nhà 1 đến nhà 6, Dãy đầu tiên gọi là Nhà 1, có ít nhất hai nhân vật khá nổi tiếng thời đó. Đó là luật sư Trần Văn Tuyên, một nhân sĩ trí thức từng thuộc nhóm Caravelle, rất được công chúng ngưỡng mộ. Người thứ hai là nhà báo, nhà hoạt động chính trị Phạm Thái, bút danh của ông Nguyễn Ngọc Tân (?), thành viên đảng Đại Việt. 

Trong số mấy ngàn học viên ở Long Thành lúc đó, ông Phạm Thái có vinh dự được các phương tiện truyền thông nhắc đến nhiều về việc trước năm 1975, ông từng có bài báo lên án vở kịch Lá Sầu Riêng của kịch sĩ Kim Cương là sản phẩm tuyên truyền cho phía CS. Mà thật vậy, sau 1975, chính tác giả vở kịch và nhiều cây bút XHCN đã khẳng định điều đó.

Ông Phạm Thái thường qua nhà 2, nơi tui ở, để nói chuyện, và chứng tỏ một kiến văn quảng bác về nhiều vấn đề chính trị, xã hội trên thế giới. Theo yêu cầu của anh em, ông còn mở lớp dạy Hán văn, song chỉ mấy ngày sau, lớp học này bị buộc phải giải tán. Với quan điểm và quá trình hoạt động chính trị của ông, ai cũng nghĩ rằng thời gian ở trại của ông sẽ phải thâm niên hơn nhiều so với đa số những người khác. Nhưng không, mọi suy đoán đều sai lạc một cách thảm hại.

Chỉ khoảng 2 tháng sau, ông Phạm Thái được ra về theo một quyết định mà trong đó, ông được ghi là can tội “Giám đốc”, một chức vụ mà không ai từng nghe nhắc đến về ông. Đây là sự bất ngờ lạ lẫm nhất, để rồi lại có tin đồn rằng ông là anh của phu nhân một vị lãnh đạo rất cao từng có thời gian mấy năm ở lại miền Nam sau hiệp định Genève 1954. Đây cũng là một loại “tin đồn vô căn cứ” khác.

Về mặt nhân sự, dãy nhà 2 của tui có lẽ là một trong mấy nơi hùng hậu nhất. Ở đây có các ông:

- Trần Minh Tiết, cựu Chủ tịch Tối cao Pháp viện
- Lưu Văn Tính, chuyên gia tài chính, cựu Tổng trưởng Tài chánh, trước tháng 4.1975 là cố vấn tài chánh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

- Nguyễn Xuân Phong, Trưởng phái đoàn VNCH tại hòa đàm Paris trước tháng 2.1973
- KTS Ngô Viết Thụ, khôi nguyên giải La Mã, người tái thiết dinh Độc lập vào đầu thập niên 1960

- Anh Nguyễn Đình Xướng, Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh) thời Ngô Đình Diệm, chức vụ cuối cùng: Tổng Quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống
- Cụ Phạm Trọng Nhân, nhân viên ngoại giao kỳ cựu, cựu Đại sứ VNCH, chức vụ cuối cùng: Giám đốc Nha nghi lễ Bộ Ngoại giao...

Trong một bài viết trên Facebook vào cuối tháng 4 một năm nào đó, tui có nhắc đến sự “gặp gỡ” tình cờ tại trại Long Thành giữa ông cựu trưởng phái đoàn hòa đàm VNCH Nguyễn Xuân Phong và ông cựu trưởng phái đoàn hòa đàm VNDCCH Xuân Thủy, có khác chăng là lúc đó Nguyễn Xuân Phong là một tù nhân đứng bên cửa sổ nhìn ra, còn Xuân Thủy là một cán bộ cao cấp đi thị sát trại, có một nhóm cán bộ lãnh đạo trại khép nép theo sau. Trong tình huống bất ngờ đó, tui tình cờ đứng cạnh ông Phong, tò mò liếc qua, thấy ông chống tay lên hông, nhìn cảnh tượng diễn ra bằng một đôi mắt thật bình thản.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét