Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2023

Đế chế EU: Hình thành và tan rã

Đế chế EU: Hình thành và tan rã
Đế chế EU đang có dấu hiệu tan rã. Chiến thắng của Erdogan làm suy yếu tham vọng địa chính trị của EU. Việc tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan tái đắc cử, đã lật tẩy huyền thoại về bất kỳ loại ảnh hưởng ‘địa chính trị nào’ của Liên minh châu Âu (EU). JB Press (Nhật): Sự thống nhất của châu Âu đã rạn nứt vì chiến dịch đặc biệt do Putin phát động ở Ukraine. Nó gây ra sự chia rẽ trong EU về chính sách năng lượng và tước đi không gian của các nhà lãnh đạo để cùng phát triển phòng thủ trong khu vực.
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, Erdogan. Ảnh Telegraph
1. Đế Chế EU Đang Tan Rã
Liên minh châu Âu – một siêu cường thế giới đã bị lật đổ – khi Recep Tayyip Erdogan tái đắc cử tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ năm 2023. Nhưng cho đến gần đây, EU đã cố gắng thuyết phục Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập hàng ngũ của mình. Về mặt hình thức, quốc gia này vẫn được coi là một ứng cử viên cho tư cách thành viên EU, mặc dù Ankara đã không thực hiện một bước cải cách hệ thống cần thiết nào kể từ năm 2004.

Theo ông Erdogan, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang phấn đấu để trở thành thành viên EU. Nhà lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí đã nói trong một cuộc họp của các đại sứ EU tại Ankara vào năm 2022 rằng đây vẫn là một “ưu tiên chiến lược”. Tất nhiên, thực tế là chừng nào Erdogan còn nắm quyền, Thổ Nhĩ Kỳ có ít cơ hội gia nhập khối hơn so với Nga của Putin.

Erdogan trở thành kẻ bị ruồng bỏ không chỉ vì những thói quen chuyên quyền, 20 năm cai trị lâu dài và những nỗ lực khuất phục quốc hội, cơ quan tư pháp và báo chí. Thế giới quan của ông ấy đã trở nên bị nguyền rủa vì ủng hộ tín ngưỡng Hồi giáo, vốn bác bỏ hoàn toàn các quyền tự do mà phương tây rất ‘yêu quý’. Rốt cuộc, chính trị gia này thậm chí đã bắt đầu chiến dịch tái tranh cử của mình với việc nhắc đến cuộc chinh phục Đế chế Byzantine của Đế chế Ottoman vào năm 1453.

Trong hoàn cảnh đó, ngay cả chiến thắng bầu cử khiêm tốn của Erdogan trước nhà lãnh đạo thế tục Kemal Kılıçdaroglu với số điểm 52% cũng hoàn toàn dập tắt giấc mơ gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ.

Việc ông Erdogan tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa, trong thời gian đó ông chắc chắn sẽ tăng cường các cuộc ‘tấn công độc đoán’ của mình vào các thể chế dân chủ của đất nước, chắc chắn đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với EU và làm suy yếu vai trò của khối này với tư cách là một siêu cường.

Độ tin cậy của EU đã bị nghi ngờ bởi phản ứng không dứt khoát của nó đối với cuộc khủng hoảng Ukraine. Sự chia rẽ sâu sắc đã nảy sinh giữa các cường quốc (Đức, Pháp và Ý), những nước tránh đối đầu công khai với Moscow, và các nước Đông Âu như Ba Lan, những nước đòi Nga phải chịu một thất bại nặng nề và không thể chối cãi trên chiến trường Ukraine vì lợi ích của mình, an ninh lâu dài của lục địa châu Âu.

EU không còn có thể có sự mơ hồ với Ankara. Tại một số thời điểm, EU đưa cho Thổ Nhĩ Kỳ một khoản ‘hối lộ khổng lồ’ để ngăn chặn dòng người nhập cư bất hợp pháp tràn vào châu Âu. Sau đó, EU tố cáo Thổ Nhĩ Kỳ vì mối quan hệ chặt chẽ với Nga – người đứng đầu chính sách đối ngoại của EU Josep Borrell gần đây đã gọi liên minh này là “gây rắc rối”.

Tất nhiên, đối với ông Erdogan, mối quan hệ thân thiết với điện Kremlin đã trở thành cứu cánh cho nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc khủng hoảng kinh tế tấn công đất nước (lạm phát trong nước vượt quá 40%) sẽ còn tồi tệ hơn nếu không có đám đông khách du lịch Nga chạy trốn lệnh trừng phạt của EU.

Với hồ sơ bất phân thắng bại của EU với ông Erdogan, rất ít người châu Âu tin rằng khối này sẽ thuyết phục được Ankara từ bỏ sự ủng hộ đối với Nga và củng cố mối quan hệ chặt chẽ hơn với EU.

2. Liên Minh Châu Âu (EU): Hình Thành Bằng Khoáng Sản – Tan Rã Vì Năng Lượng

Lịch sử thống nhất châu Âu

Sau thế chiến 2, mong muốn vượt qua ‘chủ nghĩa dân tộc’ đã dẫn đến hội nhập khu vực. Liên minh châu Âu (EU) là một ví dụ điển hình.

Làm thế nào để ngăn chặn chiến tranh là một câu hỏi cho toàn nhân loại. Công bằng mà nói, lịch sử của loài người chúng ta là lịch sử của chiến tranh, và châu Âu cũng không ngoại lệ. Kể từ thời trung cổ, các triết gia và chính khách của nó đã đưa ra các ý tưởng và các tổ chức quốc tế để xây dựng một nền văn minh không có xung đột.

Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh thế giới cũng nổ ra trong thế kỷ 20, mỗi cuộc chiến bắt đầu ở châu Âu. Đó là lý do tại sao sau chiến tranh thế giới thứ 2, Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman, doanh nhân Jean Monnet và các chính trị gia khác đã nỗ lực tìm cách hội nhập châu Âu.

Các cuộc chiến tranh châu Âu hiện đại đã diễn ra giữa Pháp và Đức – chiến tranh Pháp-Phổ (tên nước Đức trước đây – thời phong kiến có vua), thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ 2. Chúng gắn liền với cuộc tranh giành tài nguyên ở khu vực biên giới, cụ thể là than và sắt. Do đó, các chính trị gia nghĩ rằng, nguyên nhân của xung đột có thể được loại bỏ thông qua việc quản lý chung tài nguyên khoáng sản.

Vì vậy, 6 quốc gia – Pháp, Tây Đức, Ý và 3 quốc gia Benelux (một liên minh liên chính phủ của Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) – đã thành lập “Cộng đồng Than và Thép châu Âu (ECSC)” vào năm 1952. Jean Monnet trở thành chủ tịch của nó. Sau đó, vào năm 1957, họ đã tổ chức Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC).

Đồng thời, Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom) được thành lập. Vào thời điểm đó, phát triển hạt nhân là đặc quyền riêng của 2 cường quốc – Mỹ và Liên Xô.

Về vấn đề này, 6 quốc gia được đề cập đang cố gắng hợp tác phát triển năng lượng hạt nhân, điều này rất khó để thúc đẩy từng quốc gia một. Họ quyết định thúc đẩy việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, thông qua trao đổi thông tin, nghiên cứu chung và đầu tư vào các doanh nghiệp chung.

Năm 1967, ECSC, EEC và Euratom sáp nhập để tạo thành “Cộng đồng châu Âu (EC)”.

Sau đó, châu Âu đẩy mạnh phát triển năng lượng hạt nhân, nhưng một phần do sự cố tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (tháng 4 năm 1986) và nhà máy điện hạt nhân Fukushima-1 (tháng 3 năm 2011), phong trào phản đối hạt nhân bắt đầu mạnh lên và xu hướng thế giới đã thay đổi đáng kể.

Điều trớ trêu là 65 năm sau khi Euratom ra mắt, không có sự thống nhất trong chính sách hạt nhân của các nước EU.

Sau đó, Anh, Ireland và Đan Mạch gia nhập EEC năm 1973, Hy Lạp năm 1981, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1986.

Ngoài ra, sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 và chiến tranh lạnh kết thúc, năm 1995 Áo, Phần Lan và Thụy Điển trở thành thành viên của hiệp hội, năm 2004 – Síp, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Malta, Ba Lan, Slovakia và Slovenia, năm 2007 – Bulgaria và Hungary, và năm 2013 – Croatia.

Sự mở rộng này của EU đã gây ấn tượng sâu sắc. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 2 năm 2020, vương quốc Anh rời liên minh châu Âu (EU). Hầu hết người Anh hiện hối hận về Brexit, nhưng họ đã không đưa ra quyết định đúng đắn khi đối mặt với cơn bão dân túy. Điều này đã trở thành một yếu tố tiêu cực nghiêm trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế Anh.

Tích hợp sâu và không có lựa chọn thay thế

Cùng với sự mở rộng, sự sâu rộng của EU cũng cần được lưu ý. Bản thân quá trình chuyển đổi từ ECSC sang EU đã là một quá trình sâu sắc hơn về mặt hội nhập ngày càng tăng.

Quá trình này tiếp tục và vào năm 1987, nghị định thư châu Âu duy nhất có hiệu lực, hạn chế một số chủ quyền quốc gia và mở đường cho một thị trường duy nhất trong khu vực, cũng như hợp tác chính trị.

Năm 1993, hiệp ước Maastricht (hiệp ước Liên minh châu Âu) được khởi xướng, tăng cường hội nhập bằng cách tạo ra một loại tiền tệ duy nhất, đồng Euro, và thiết lập một cấu trúc 3 nhánh dựa trên chính sách “đối ngoại, an ninh và công lý (luật pháp) chung”. Tháng 1 năm 1999, đồng Euro chính thức được đưa vào lưu thông.

Hiệp ước Maastricht đã được sửa đổi bởi các hiệp ước Amsterdam (1999) và hiệp ước Nice (2003). Ngoài ra, vào năm 2009, hiệp ước Lisbon có hiệu lực, quy định các cải cách tổ chức để hội nhập hơn nữa. Bây giờ nó là thỏa thuận chính của EU.

Vì châu Âu muốn tránh lặp lại sự khủng khiếp của chiến tranh đã có những đề xuất về việc hợp nhất các lực lượng vũ trang. Trở lại năm 1950, René Pleven, người Pháp, đã đưa ra ý tưởng thành lập “cộng đồng phòng thủ châu Âu (EDC)”.

Tuy nhiên, đề xuất của ông đã bị bác bỏ do vấp phải sự phản đối của quốc hội Pháp. Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được thành lập năm 1949 đóng vai trò bảo vệ Tây Âu trước mối đe dọa quân sự từ Liên Xô và Đông Âu.

Nhưng khi chiến tranh lạnh kết thúc vào năm 1989 (thời điểm kết thúc chiến tranh lạnh đã được chính thức ghi trong “hiến chương Paris về một châu Âu mới” năm 1990) và bức tường Berlin sụp đổ, các nước Đông Âu thoát khỏi ảnh hưởng của Liên Xô và xin gia nhập NATO (vấn đề NATO mở rộng sang phía Đông).

Ba Lan, Cộng hòa Séc và Hungary tham gia liên minh NATO năm 1999, Estonia, Slovakia, Slovenia, Bulgaria và Latvia năm 2004, Litva và Romania năm 2009, Albania và Croatia năm 2009, Montenegro năm 2017, 2020 – Bắc Macedonia. Ngày 4 tháng 4 năm 2023, Phần Lan gia nhập NATO. Thụy Điển hiện đang chờ phê duyệt để trở thành thành viên.

Việc mở rộng NATO đã làm giảm nhu cầu về EDC. Theo nghĩa này, thật công bằng khi nói rằng cơ hội thành lập các lực lượng vũ trang thống nhất của riêng châu Âu trong tương lai là rất mong manh.

Trong khi đó, tình hình quân sự hiện tại ở Ukraine đang được lãnh đạo bởi nhà lãnh đạo NATO là Hoa Kỳ và vương quốc Anh, vốn có truyền thống duy trì quan hệ chặt chẽ với nước 
Hoa Kỳ, do đó Đức và Pháp – cố gắng duy trì vị trí của mình, không thể tự do hành động.

Trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 5-7 tháng 4 năm 2023, tổng thống Pháp Emmanuel Macron cho rằng châu Âu nên theo đuổi chiến lược độc lập với Mỹ và Trung Quốc liên quan đến cuộc khủng hoảng Đài Loan.

Ông nhấn mạnh rằng EU nên là cực thứ 3 sau Mỹ và Trung Quốc: “Điều tồi tệ nhất là nghĩ rằng, người châu Âu chúng ta nên noi gương người khác trong vấn đề này và thích nghi với nhịp điệu của Mỹ cũng như phản ứng thái quá của Trung Quốc”.

Thực tế là Pháp có vũ khí hạt nhân và chiến lược riêng của mình. Đổi lại, Đức thua trong thế chiến 2. Nó bị cấm sở hữu vũ khí hạt nhân và các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được đặt trên lãnh thổ của nó. Những nỗ lực xây dựng hòa bình bằng cách làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau với Nga là không sai.

Tuy nhiên, nếu các lựa chọn khác nhau do Berlin và Paris đưa ra bị gạt sang một bên, thì sẽ có ít cơ hội hơn cho một lệnh ngừng bắn ở Ukraine. Châu Âu sẽ rơi vào tình thế vô vọng.

Phi hạt nhân hóa bất chấp đa số phản đối

Vào ngày 15 tháng 4 năm 2023, Đức đóng cửa tất cả các nhà máy điện hạt nhân.

Sau sự cố Fukushima-1 vào tháng 3 năm 2011, chính phủ Merkel đã quyết định đóng cửa 8 trong số 17 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động vào thời điểm đó, bao gồm 7 lò cũ và 1 lò khẩn cấp, 9 lò còn lại sẽ ngừng hoạt động dần vào cuối năm 2022.

Chính phủ của Scholz hiện bao gồm Đảng Xanh, đảng kêu gọi từ bỏ năng lượng hạt nhân. Đây là một trong những lý do khiến các nhà chức trách quyết định đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân, nhưng do xung đột ở Ukraine nên việc thực hiện kế hoạch này bị trì hoãn.

Bản đồ nguồn năng lượng cho thấy tỷ lệ năng lượng hạt nhân trong nước đã giảm từ 18% năm 2011 xuống còn 6% vào năm 2022. Ngược lại, tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo tăng từ 20% lên 44%.

Tuy nhiên, không rõ liệu năng lượng tái tạo có thể cung cấp công suất cần thiết hay không. Và nếu sự thiếu hụt được bù đắp bằng năng lượng than, điều này có nghĩa là một sự thụt lùi.

Do lo ngại về sự ổn định của nguồn cung và giá điện tăng cao, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy đa số người dân phản đối việc đóng cửa nhà máy điện hạt nhân. Chính phủ Đức tự tin rằng nếu cần thiết, họ sẽ có thể nhập khẩu điện từ các nước láng giềng. Điều này là do châu Âu có một hệ thống năng lượng xuyên quốc gia.

Tuy nhiên, nếu Đức nhận được điện từ, chẳng hạn như Pháp hoặc Ukraine, điều này có nghĩa là cuối cùng thì sự phụ thuộc của nước này vào năng lượng hạt nhân sẽ tiếp tục, vì nguồn điện này được sản xuất tại các nhà máy điện hạt nhân.

Chính phủ Đức đang tăng cường dự trữ LNG (khí đốt hóa lỏng), nhưng nếu trời lạnh hơn vào mùa đông 2023-2024, có thể xảy ra tình trạng thiếu khí đốt.

Nhân tiện, việc ngừng hoạt động của các lò phản ứng sẽ mất khoảng 15 năm, nhưng không có kế hoạch khởi động lại chúng.

Ở Pháp, tỷ lệ năng lượng hạt nhân là hơn 70% và nhờ đó, nó thực tế không bị ảnh hưởng bởi hoạt động đặc biệt của Putin. Ngược lại, Đức và Ý phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ và khí đốt của Nga, do đó nền kinh tế của họ đã bị giáng một đòn nặng nề: giá điện và nhiên liệu xanh tăng vọt.

Trong nhập khẩu của Ý, tỷ lệ dầu mỏ của Nga đạt 11%, khí đốt – 31% và than đá – 56%. Năm 1990, Ý đã loại bỏ toàn bộ nhà máy điện hạt nhân. Về vấn đề này, Ý hiện đang nỗ lực đa dạng hóa các nguồn nhập khẩu năng lượng.

Vào ngày 16 tháng 4 năm 2023, một ngày sau khi Đức đóng cửa ba lò phản ứng hạt nhân cuối cùng, Phần Lan bắt đầu vận hành một trong những nhà máy điện hạt nhân mới lớn nhất hành tinh.

Pháp và Hà Lan đang xây dựng lần lượt 6 và 2 nhà máy điện hạt nhân mới. Ngoài ra, Bỉ sẽ kéo dài tuổi thọ của 2 nhà máy điện hạt nhân dự kiến ​​đóng cửa vào năm 2025. Các nước Trung và Đông Âu như Hungary, Séc, Ba Lan, Slovakia và Romani cũng đang lên kế hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới.

Do đó, có một sự thiếu thống nhất đáng chú ý về chính sách năng lượng ở các nước châu Âu. Trong bối cảnh những nỗ lực ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu, nguồn cung cấp năng lượng ổn định có tầm quan trọng đặc biệt.

Nguồn: Trên mạng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét