Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Đền, chùa, đình, miếu là gì?

Đền, chùa, đình, miếu là gì? 
Nói về các nơi thờ cúng tế tự, địa điểm tâm linh thường gặp như chùa, miếu, đình, đền… Đặc biệt, 'Chùa' cổ xưa không phải là nơi thờ Phật. Khái niệm thông thường hiện nay của những danh từ này như sau:

Chùa Thiên Mụ, Huế
Chùa là gì?
Chùa trường sở tu hành của những người chuyên tu Phật giáo, đó là tăng nhân, hòa thượng, ni cô. Chùa cũng là nơi tín chúng đến lễ bái Phật, Bồ Tát, và nghe giảng kinh.

Đình là gì?

Đình là nơi thờ Thành Hoàng của làng - vị Thần bảo hộ cho làng. Thành Hoàng thường là người có công lập ra làng, hoặc ông tổ nghề. Đình còn là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Tuy nhiên cần phân biệt Đình và Miếu, vì cũng có nhiều người có công lập ra làng, ông tổ nghề còn được lập miếu thờ.

Đền là gì?

Đền là nơi thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được phong là Thần Thánh. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh… thờ các vị Thánh theo truyền thuyết dân gian.

Đền Hùng - Đền Thượng với 4 chữ Nam Việt Triệu Tổ

Miếu là gì?

Miếu là nơi thờ các vị Thần, hoặc được coi như Thần trong tín ngưỡng dân gian, giống với đền nhưng có quy mô nhỏ hơn. Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu miếu Sơn Thần, miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy Thần, miếu Thổ Thần hoặc Thần Hậu thổ.

Như vậy có thể tóm tắt: Đình thờ Thành Hoàng, Miếu thờ các vị Thần trong tín ngưỡng dân gian, Đền thờ những danh nhân, anh hùng được phong Thánh, còn Chùa là nơi thờ Phật.

Ngoài Đình thờ Thành Hoàng ra, thì về cơ bản là Chùa thờ Phật, Đền, Miếu chùa Thánh Thần. Vậy có gì khác giữa Chùa/ Tự viện và Đền/ Miếu?

Chùa là tên thuần Việt, tên Hán Việt là Tự, Tự viện. Cũng như vậy, Đền là tên thuần Việt, tên Hán Việt là Miếu.

Lịch sử của Chùa / Tự: Chùa xưa không phải là nơi thờ Phật

Trong sách "Thuyết văn giải tự", hàm nghĩa của "Chùa" (Tự) là: "Chùa, đình, là nơi thực thi pháp luật" (tự đình dã, hữu pháp độ dã), hoặc là "Chùa, là nơi quản lý, cũng là nơi của quan." (tự, trì dã, quan xá dã).

Thời Trung Quốc cổ đại, Chùa (Tự) vốn là công sở, nơi làm việc của quan viên. Kết cấu tạo chữ của “Tự” (寺) là: thượng thổ, hạ thốn. Ngụ ý rằng trong thiên hạ mỗi tấc đất đều thuộc về quân chủ, và "Tự" là nơi chính thức phục tùng quân chủ, làm việc cho thiên tử, là cơ quan chính thức xử lý các công việc của chính phủ.

Vì vậy, vào thời cổ đại đã từng có Đại lý tự, Hồng lư tự, Thái thường tự … các cơ quan này có quyền thực thi pháp luật.

Vào năm Vĩnh Bình thứ 10 thời Đông Hán (năm 67 sau Công nguyên), các tăng nhân Thiên Trúc Nhiếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan, Thái Âm và Vương Tuân cùng nhau đồng hành, dùng bạch mã thồ kinh đến Đông Thổ, việc này được coi là biểu tượng của Phật giáo truyền nhập vào Trung Thổ. Hán Minh Đế đã ra lệnh xây dựng một tổ hợp kiến trúc theo phong cách Thiên Trúc ở bên ngoài cổng Ung Môn, phía Tây thành Lạc Dương để các tăng nhân Tây Vực ở lại. Những kiến trúc này tương ứng với “Tự” của “Hồng lư tự”, đồng thời để kỷ niệm công lao của bạch mã thồ kinh, liền đặt tên cho tòa kiến trúc này là “Bạch Mã tự” (Chùa Bạch Mã).

Chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc. (Wikipedia)

Kể từ đó, "chùa" không chỉ là đề cập đến quan thự, mà còn là nơi các nhà sư sống và tu hành. Theo sự truyền bá của Phật giáo ở Trung Thổ, kiến trúc tương ứng cũng ngày càng nhiều, tất cả đều gọi là “chùa” (tự), theo thời gian, người ta có thói quen lấy "chùa" để đại biểu cho các kiến trúc Phật môn, và ý nghĩa ban đầu của nó là công sở bị người ta lãng quên…

Lịch sử của Miếu / Đền

Nói về lịch sử của "miếu" thì có thể còn lâu đời hơn "chùa". Vào thời Trung Quốc cổ đại, ngôi miếu có rất nhiều ý nghĩa, không chỉ đề cập đến miếu đường - nơi thờ cúng bài vị của tổ tiên, mà còn là nơi thờ cúng các vị Thần và các danh sĩ hiền nhân lịch sử.

Theo ghi chép của "Nhĩ nhã": "Miếu, là hình dáng bên ngoài, cũng là hình dáng của tổ tiên." (Miếu, mạo dã, tiên tổ hình mạo tại dã). Sự xuất hiện của miếu, ban đầu là nơi tưởng nhớ tổ tiên, tôn kính tổ tiên của gia tộc.

"Thuyết văn" giải thích chữ miếu: "tôn tiên tổ" (tôn kính tổ tiên). Được Đoàn Ngọc chú thích là "miếu ngày xưa để thờ cúng tổ tiên."

"Thích danh giải cung thất" tiếp tục làm rõ thêm việc "tôn tổ tiên mạo" mà "Thuyết văn" nói: "Miếu, tức là mạo, nơi hình hài dung mạo của tổ tiên ở".

Bởi vì "miếu" là "nơi có hình mạo của tổ tiên", cũng tức là nơi có hình mạo của tổ tiên, nơi thờ cúng tổ tiên, nơi có chân dung của tổ tiên.

Mà triều đại nhà Chu coi trọng lễ nghĩa, các cấp bậc khác nhau dùng lễ khác nhau, vì vậy các ngôi miếu cũng được chia thành các cấp, người có cấp bậc khác nhau thì quy mô của các ngôi miếu cũng không giống nhau. Trong sách “Lễ ký” nói: “Thiên tử thất miếu, khanh tướng ngũ miếu, đại phu tam miếu, sĩ nhất miếu”.

Trong phim truyền hình chúng ta nghe thấy từ “Thái miếu” chính là nói đến nơi mà Hoàng đế (thiên tử) thờ cúng tổ tiên của mình.

Người ta nói rằng từ thời nhà Hán, ý nghĩa của "miếu" đã thay đổi, thường được sử dụng để truy tự (cấp xưng hiệu cho vua hoặc đại quan sau khi mất), sắc phong cho một số hiền thần hoặc các nhân vật có đạo đức có sức ảnh hưởng, chẳng hạn như "Miếu Khổng Tử", "Miếu Quan Đế"... giống như đền thờ. 

Nhiều vị hiền thần của các triều đại trước đã có nhiều cống hiến cho đất nước, cho nhân dân, sau khi chết triều đình truy phong công lao sự nghiệp, chiếu lệnh có thể phối hợp hưởng miếu, cũng chính là những người có công đức này có thể tiếp nhận hương hỏa tế tự của dân gian hay quan viên, để tỏ lòng tưởng nhớ và tôn kính, từ đó về sau đời đời lưu truyền.

***

Khi Phật giáo và Nho giáo cùng với kinh sách chữ Hán từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam, do tiếng Việt đã có từ Chùa rồi, nên chúng ta dùng từ Chùa cho nơi thờ Phật, và từ gốc Hán Tự thì bao gồm cả nghĩa ban đầu - công sở, nơi làm việc của quan lại xưa, và bao gồm cả nơi thờ Phật.

Ví dụ, từ thời Hồng Đức, triều Hậu Lê, Đại lý tự giữ vai trò quan trọng về tư pháp. Hồng lô tự là cơ quan phụ trách việc tiếp đón và thể thức lễ nghi với những sứ đoàn từ các triều hoặc nước khác đến. Thượng bảo tự phụ trách việc văn phòng giúp vua, giữ ấn triện, sao chép sắc chỉ, dụ vua ban hoặc những chương sớ sổ sách đã được vua chuẩn y.

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, Châu Đốc, An Giang. (Miền công cộng)

Tiếng Việt cũng có từ Đền rồi, nên từ gốc Hán là Miếu được sử dụng cho Đền có quy mô nhỏ hơn, hoặc Thần không chính thức (tức không được vua sắc phong), mà chỉ là Thần trong tín ngưỡng dân gian địa phương mà thôi.

Nguồn: Trên mạng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét