6 quốc gia sẽ định hình trật tự thế giới trong tương lai
Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Saudi Arabia, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ là 6 cường quốc khu vực. Họ không nằm trong quỹ đạo của bất kỳ ai và do đó được tự do tạo ra các ảnh hưởng sức mạnh mới. 6 quốc gia bậc trung cấp khu vực ở Nam bán cầu sẽ định hình trật tự thế giới. Đặc biệt, họ đều đứng về phía Nga và ngày càng rời xa ảnh hưởng của Mỹ. Mỹ sẽ tính đến điều đó trong chiến lược của mình.Lãnh đạo thế giới Putin, Modi, Erdogan. Ảnh: FP
Vào tháng 5/2023, tổng thống Volodymyr Zelensky đã công du gần 1 tuần ở Jeddah, Saudi Arabia và Hiroshima, Nhật Bản. Mục tiêu của Zelensky là tranh thủ sự ủng hộ của Brazil, Ấn Độ, Indonesia và Saudi Arabia – 4 quốc gia trung lập chính trong cuộc xung đột Nga – Ukraine.4 quốc gia này và các quốc gia hàng đầu khác của Nam bán cầu ngày nay đã giành được quyền lực chưa từng thấy so với trước đây. Quyền lực địa chính trị của họ được giải thích như sau: Họ ngày càng có nhiều quyền tự do hành động, họ được hưởng lợi từ quá trình khu vực hóa và tận dụng lợi thế về sự căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc.
1. Một chút lịch sử
Chưa bao giờ kể từ thế chiến 2, các cường quốc ‘tầm trung’ lại có nhiều cơ hội để hành động như vậy. Các quốc gia này đã gia tăng ảnh hưởng địa chính trị, nhưng vẫn ở thế yếu hơn so với 2 siêu cường thế giới – Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Ở miền Bắc bán cầu bao gồm Pháp, Đức, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và các nước khác. Tuy nhiên, ngoại trừ Nga, các quốc gia này không phải là ‘dấu hiệu’ cho thấy sự cân bằng quyền lực và đòn bẩy. Vì nhìn chung, họ vẫn nằm trong khu vực ảnh hưởng Mỹ.
Thú vị hơn nhiều về mặt này là 6 cường quốc bậc trung hàng đầu của Nam bán cầu: Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Saudi Arabia, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ. 6 cường quốc khu vực này không nằm trong quỹ đạo của bất kỳ ai và do đó được tự do tạo ra các ảnh hưởng sức mạnh mới.
Tất cả họ đều là thành viên của G20 và đang hoạt động tích cực trong cả địa chính trị và địa kinh tế. 6 quốc gia này cũng có thể đóng vai trò là phong vũ biểu cho các xu hướng địa chính trị rộng lớn hơn ở Nam bán cầu.
Tầm quan trọng của 6 quốc gia này đang tăng lên vì nhiều lý do, nhưng chúng có thể được chia thành 2 ‘nhóm vấn đề’: Các vấn đề có nguồn gốc sâu xa từ lịch sử và các xu hướng toàn cầu gần đây.
Về khía cạnh lịch sử, những diễn biến sau Chiến tranh Lạnh đã mở rộng quyền tự do hành động của 6 cường quốc này trên trường quốc tế. Chiến tranh Lạnh đi kèm với sự phân chia nghiêm ngặt thành các khối đối lập, do đó 1 số quốc gia này do dự đứng về bất kỳ bên nào.
Kỷ nguyên đơn cực tiếp theo của Hoa Kỳ đòi hỏi hầu hết tất cả 6 quốc gia này phải thể hiện sự trung thành với Washington. Lưỡng cực Trung Quốc – Mỹ ngày nay yếu hơn và tất cả các cường quốc tầm trung có nhiều cơ hội để hành động độc lập hơn.
Vấn đề thứ 2 trong số các vấn đề thuộc về lịch sử là quá trình phi toàn cầu hóa đã diễn ra trong 2 thập kỷ qua. Do đó, các mối quan hệ địa chính trị và địa kinh tế mới đang được hình thành ở cấp khu vực.
Tất cả các quốc gia ‘dao động’ đều là những cường quốc khu vực và vai trò của họ chỉ tăng lên khi vị thế khu vực của họ được củng cố. Quá trình di chuyển chuỗi sản xuất và cung ứng, cũng như quan hệ thương mại cho thấy, nhiều công ty đã dịch chuyển từ Trung Quốc sang các khu vực khác – chủ yếu ở Nam bán cầu.
Trong tương lai, một số nước ‘trong 6 quốc gia’ thậm chí sẽ trở thành trung tâm thương mại khu vực sầm uất hơn. Ví dụ điển hình nhất về điều này là Ấn Độ, khi các công ty Mỹ đang ngày càng thiết lập các nhà máy ở đó và xây dựng chuỗi cung ứng mới thông qua Ấn Độ.
Các thị trường năng lượng cũng đang được “khu vực hóa”, nằm trong tay của Saudi Arabia. Tương tự, thủ đô Riyadh của nước này cũng đang trở thành một trung tâm tài chính khu vực. Ngoài ra, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) nhấn mạnh rằng, thế giới đang ngày càng bị phân mảnh, các cường quốc tầm trung cấp khu vực sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Thứ ba, trong Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ và Indonesia vừa mới thoát khỏi ách áp bức của thực dân. Điều này hạn chế vai trò toàn cầu của họ trong kỷ nguyên lưỡng cực. Ngày nay, tất cả 6 quốc gia đó đều hoàn toàn tự chủ.
Nhưng đây không chỉ là hiện thân mới của Phong trào không liên kết hoặc các tổ chức khác tập trung vào Nam bán cầu (có thể là G-7 hoặc BRICS) – ảnh hưởng của họ yếu hơn.
Những ảnh hưởng khác của 6 quốc gia như đề cập bắt nguồn từ các xu hướng toàn cầu gần đây. Sức mạnh của họ được củng cố bởi đòn bẩy thu được từ sự cạnh tranh và đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc.
2. Các cường quốc khu vực đang củng cố sức mạnh
Cả 2 siêu cường đều muốn biến các quốc gia xung đột thành đồng minh, và điều này mang lại cho họ cơ hội để đối đầu với nhau. Do đó, sức mạnh và ảnh hưởng của Ấn Độ đã tăng lên mạnh mẽ kể từ khi nước này tham gia “Đối thoại an ninh 4 bên” – QUAD, đối trọng quan trọng nhất của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Brazil và Indonesia đã được hưởng lợi từ những nỗ lực của Trung Quốc để giành được hợp đồng đối với các nguồn khoáng sản quan trọng – đặc biệt là lithium, niken và nhôm.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, trong khi cả 6 quốc gia có thể nghiêng về Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc trong các vấn đề riêng lẻ, nhìn chung phần lớn giữ được thế tương đối cân bằng.
Hiện tại, họ được tự do trong nhiều lĩnh vực và có thể đặt cược vào một cường quốc chống lại một cường quốc khác. Ngoại lệ duy nhất là các công nghệ cơ bản, bao gồm chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử, viễn thông 5G và công nghệ sinh học: Ở đây, các cường quốc bậc trung chắc chắn sẽ phải đặt cược rõ ràng – vào Hoa Kỳ hoặc vào Trung Quốc.
Tương tự như vậy, các cường quốc ở Nam bán cầu, với nền kinh tế lớn và đang phát triển, đang củng cố ảnh hưởng của họ trong chính sách khí hậu toàn cầu. Không có sự tham gia của họ, không thể giải quyết được các vấn đề liên quan đến ô nhiễm và tác động của con người.
Các thị trường carbon đang ngày càng mang lại nhiều nguồn lực hơn cho các cường quốc bậc trung này, bất kể lượng khí thải thực tế của họ là bao nhiêu, bởi vì các công ty phương tây với nguyện vọng không có carbon cần được đền bù.
Nói rộng hơn, cuộc chiến chống phá rừng và khử cacbon đòi hỏi sự tham gia mang tính xây dựng của các cường quốc khu vực này – Brazil và Indonesia về nạn phá rừng và Ấn Độ và Indonesia về khử cacbon (đặc biệt là liên quan đến đốt than).
Cuối cùng, cơ chế của cái gọi là “Just Transition” đang tập trung vào việc tìm kiếm các giải pháp sáng tạo để tài trợ cho các mục tiêu khí hậu, với Nam Phi và Indonesia là những người đầu tiên nhận được tài trợ.
Mặc dù cho đến nay, kết quả của chương trình vẫn chưa thống nhất, nhưng đây là một ví dụ về cách 2 cường quốc tầm trung có thể đi đầu trong chính sách môi trường.
Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những quốc gia xuất khẩu hàng hóa lớn nhất đến Nga, giúp Nga chống lại các lệnh trừng phạt của Mỹ và đồng minh. Đối với hoạt động này, Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với 4 công ty Thổ Nhĩ Kỳ.
Hầu hết các cường quốc tầm trung khác vẫn hoàn toàn trung lập, mặc dù Nam Phi đang nghiêng về Nga. Cả 6 nước đều duy trì hoặc mở rộng thương mại và các mối quan hệ khác với Nga ngay cả trước khi bùng nổ chiến sự.
IMF dự đoán rằng nền kinh tế Nga sẽ tăng trưởng 0,7% trong năm nay, hầu như không phải là tình trạng tê liệt mà phương tây mong đợi. 6 cường quốc bậc trung này đã giúp Nga ‘hấp thụ’ lệnh trừng phạt và sẽ tiếp tục làm như vậy. Đây là một trong những lý do tại sao điện Kremlin đã quyết định rằng, họ sẽ an toàn – bằng cách mở rộng thương mại về phía nam và phía đông.
Ảnh hưởng gia tăng đáng kể của các cường quốc bậc trung ở Nam bán cầu cũng thể hiện trong các sáng kiến hòa giải. Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành cường quốc bên ngoài có ảnh hưởng nhất trong cuộc xung đột Ukraine.
Tổng thống Recep Tayyip Erdogan đã trở thành nhà đàm phán chính về các thỏa thuận ngũ cốc, tham gia các cuộc đàm phán hòa bình khi chiến sự bùng nổ và có vị trí tốt để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán trong tương lai nếu các bên đồng ý.
Tổng thống Brazil, Luiz Inacio Lula da Silva đã đưa ra sáng kiến của riêng mình. Mặt khác, Ấn Độ đã có lập trường thoải mái hơn với hy vọng trở thành nhà môi giới hòa bình trong tương lai.
Do đó, các quốc gia này đã nhận được những cơ hội tốt để hòa giải trong các cuộc xung đột khác. Vị thế của Ấn Độ đặc biệt cao trong vấn đề này, nhất là bởi vì, tính đến tháng 2 năm 2023, nước này đã chiếm 8% lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đang hoạt động.
Cuối cùng, kinh nghiệm khoa học và kỹ thuật tích lũy được ở các quốc gia này khiến họ trở thành những điểm nóng tiềm năng cho phổ biến vũ khí hạt nhân. Quốc gia tiếp theo gia nhập câu lạc bộ hạt nhân, chắc chắn sẽ là một quốc gia từ Nam bán cầu.
Mặc dù điều này khó xảy ra trong ngắn hạn, đặc biệt là sau khi nối lại quan hệ hữu nghị với Saudi Arabia, nhưng Iran vẫn là mối đe dọa phổ biến vũ khí hạt nhân nguy hiểm nhất trên toàn thế giới.
Trong vấn đề công nghệ, Iran có thể trở thành một cường quốc hạt nhân bí mật có khả năng chế tạo bom trong một khoảng thời gian ngắn. Trong một kịch bản mà mối quan hệ với Saudi Arabia xấu đi nghiêm trọng và Iran phát triển bom hạt nhân, Saudi Arabia và có thể cả Thổ Nhĩ Kỳ, cũng sẽ làm đều đó.
Đó là lý do tại sao người ta tin rằng, trong số những nhượng bộ khác, Saudi Arabia đã đàm phán bảo đảm hạt nhân từ Hoa Kỳ để đổi lấy việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel.
4. Trật tự thế giới mới: Mang tên đa cực
Toàn cầu tập trung vào BRICS như đối trọng chính với quyền bá chủ của phương tây làm lu mờ phần lớn những gì đang xảy ra ở Nam bán cầu. Điều này là do sự tham gia của Trung Quốc và Nga trong BRICS đã che đậy sự trỗi dậy mang tính quyết định của 6 quốc gia này.
Trung Quốc là một trong 2 siêu cường của thế giới ‘lưỡng cực’. Việc coi Trung Quốc là một phần của Nam bán cầu là một sự nối dài, chủ yếu là do sức mạnh kinh tế và tham vọng địa chính trị rộng lớn của Trung Quốc.
Nga là một cường quốc bậc trung đang suy tàn. Cách tiếp cận xét lại của nó đối với thế giới không được chia sẻ bởi các cường quốc bậc trung ở Nam bán cầu. Vì vậy, chính sách của 2 quốc gia BRICS tích cực nhất về mặt địa chính trị được giải thích bằng một logic – khác với logic của ‘6 các quốc gia’.
Tuy nhiên, câu hỏi vẫn là, liệu các nước BRICS dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc có trở thành một thể chế chính thức với tuyên bố đại diện cho Nam bán cầu hay không.
Triển vọng này là một thách thức rõ ràng đối với phương tây, đặc biệt là khi 19 quốc gia khác đã bày tỏ mong muốn gia nhập nhóm. Nhưng lời đe dọa này khó có thể trở thành hiện thực.
Ấn Độ, một cường quốc BRICS có ảnh hưởng, kiên quyết chống lại những nỗ lực của Trung Quốc nhằm khuất phục nước này dưới quyền của mình. Saudi Arabia, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ (thành viên NATO), Ấn Độ và cả Nam Phi vẫn duy trì mối quan hệ quan trọng với Mỹ và các nước phương tây quan trọng khác, dù là về an ninh hay thương mại.
Các quốc gia này có thể đã quay lưng lại với Mỹ, nhưng không đủ để tích cực phản đối thông qua một tổ chức do Trung Quốc đứng đầu, được Nga hậu thuẫn. Cho đến nay, BRICS vẫn chưa chứng tỏ mình là một thế lực, có thể phát triển và thực hiện một chương trình nghị sự chung.
Do đó, có rất ít năng lực thể chế để Trung Quốc dẫn đầu. Cuối cùng, BRICS hoạt động trên cơ sở đồng thuận và việc thêm các thành viên mới với lợi ích riêng của họ sẽ khiến mục tiêu này càng khó đạt được hơn.
Một số người sẽ lập luận rằng, 6 cường quốc này đáng được chú ý kỹ lưỡng. Tất cả họ vẫn là những thị trường mới nổi. Ngoại trừ Ấn Độ, tăng trưởng ở các các nước này không đạt như kỳ vọng.
Nhóm này tụt lại phía sau trong việc phát triển các thể chế công và tăng cường pháp quyền. Các cuộc cách mạng công nghệ, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, sẽ tác động mạnh hơn đến Nam bán cầu so với các nền dân chủ tiên tiến và công nghiệp hóa, vì họ có ít nguồn lực hơn để đối phó với những hậu quả nguy hiểm về mặt chính trị của trí tuệ nhân tạo.
Và trong khi các mục tiêu môi trường của phương tây đã mang lại cho 6 nước này một số đòn bẩy, thì tác động của biến đổi khí hậu sẽ gây tổn hại và tổn thương đáng kể cho họ.
Tuy nhiên, nhìn chung, lập luận cho rằng, các cường quốc này đã lớn mạnh hơn và sẽ trở nên mạnh mẽ hơn nữa về mặt địa chính trị trong tương lai là khá thuyết phục.
Kết luận chính trị quan trọng nhất là Washington sẽ phải chơi một canh bạc nhiều hơn với 6 quốc gia này để ngăn chặn sự suy yếu đáng kể vị thế của Mỹ trong cán cân quyền lực toàn cầu.
Nhiều quốc gia trong số này đã từ chối ủng hộ Mỹ trong cuộc xung đột Nga-Ukraine hoặc sự cạnh tranh với Trung Quốc và tiếp tục lùi bước. Nguy cơ Trung Quốc và Nga sẽ tiếp quản BRICS mở rộng, và cùng với nó là toàn bộ Nam bán cầu, là có thật và cũng phải được tính đến.
Washington cần một chiến lược ngoại giao được cân nhắc kỹ lưỡng không chỉ cho từng quốc gia trong số 6 quốc gia chủ chốt, mà còn cho chính Nam bán cầu.
Có lẽ chiến lược tốt nhất sẽ bắt đầu với các chuyến thăm cấp cao nhất của các nhà ngoại giao chủ chốt của Mỹ. Và phần tiếp theo sẽ là một chiến lược giao dịch linh hoạt hơn sẽ mở ra khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
Nói rộng hơn, Hoa Kỳ phải dự đoán tốt hơn phản ứng của 6 quốc gia này và Nam bán cầu sẽ phản ứng như thế nào trước các quyết định chính sách quan trọng của Mỹ. Ví dụ, sự xa lánh của Nam bán cầu do chính sách của phương tây chống lại Nga đã khiến Washington bất ngờ.
Kể từ khi bùng nổ chiến sự ở Ukraine vào tháng ngày 24 tháng 2 năm 2022, Hoa Kỳ đã chơi trò đuổi bắt, và ngay cả trong việc này, họ cũng không thành công. Để đưa ra những dự đoán chính xác, người ta phải hiểu rõ hơn về tâm trạng và quan điểm của giới tinh hoa ở các quốc gia Nam bán cầu.
Thứ hai, sức mạnh và đòn bẩy của 6 quốc gia này (và các cường quốc tầm trung nói chung) sẽ bị ảnh hưởng nếu căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang mạnh mẽ thành một cuộc đối đầu theo định dạng Chiến tranh Lạnh. Sự mất đoàn kết về kinh tế sẽ ngày càng trầm trọng và 6 quốc gia này rất có thể sẽ phải xích lại gần bên này hay bên kia.
Cuối cùng, với sự củng cố của 6 quốc gia này, số lượng các quốc gia có đòn bẩy ảnh hưởng địa chính trị đã tăng lên trên thế giới. Vấn đề địa chính trị thực sự rất quan trọng trong bối cảnh xung đột hiện nay. Do đó, dự đoán kết quả địa chính trị – một quá trình vốn đã tốn nhiều công sức – cũng trở nên phức tạp hơn.
Chưa bao giờ kể từ thế chiến 2, các cường quốc ‘tầm trung’ lại có nhiều cơ hội để hành động như vậy. Các quốc gia này đã gia tăng ảnh hưởng địa chính trị, nhưng vẫn ở thế yếu hơn so với 2 siêu cường thế giới – Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Ở miền Bắc bán cầu bao gồm Pháp, Đức, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và các nước khác. Tuy nhiên, ngoại trừ Nga, các quốc gia này không phải là ‘dấu hiệu’ cho thấy sự cân bằng quyền lực và đòn bẩy. Vì nhìn chung, họ vẫn nằm trong khu vực ảnh hưởng Mỹ.
Thú vị hơn nhiều về mặt này là 6 cường quốc bậc trung hàng đầu của Nam bán cầu: Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Saudi Arabia, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ. 6 cường quốc khu vực này không nằm trong quỹ đạo của bất kỳ ai và do đó được tự do tạo ra các ảnh hưởng sức mạnh mới.
Tất cả họ đều là thành viên của G20 và đang hoạt động tích cực trong cả địa chính trị và địa kinh tế. 6 quốc gia này cũng có thể đóng vai trò là phong vũ biểu cho các xu hướng địa chính trị rộng lớn hơn ở Nam bán cầu.
Tầm quan trọng của 6 quốc gia này đang tăng lên vì nhiều lý do, nhưng chúng có thể được chia thành 2 ‘nhóm vấn đề’: Các vấn đề có nguồn gốc sâu xa từ lịch sử và các xu hướng toàn cầu gần đây.
Về khía cạnh lịch sử, những diễn biến sau Chiến tranh Lạnh đã mở rộng quyền tự do hành động của 6 cường quốc này trên trường quốc tế. Chiến tranh Lạnh đi kèm với sự phân chia nghiêm ngặt thành các khối đối lập, do đó 1 số quốc gia này do dự đứng về bất kỳ bên nào.
Kỷ nguyên đơn cực tiếp theo của Hoa Kỳ đòi hỏi hầu hết tất cả 6 quốc gia này phải thể hiện sự trung thành với Washington. Lưỡng cực Trung Quốc – Mỹ ngày nay yếu hơn và tất cả các cường quốc tầm trung có nhiều cơ hội để hành động độc lập hơn.
Vấn đề thứ 2 trong số các vấn đề thuộc về lịch sử là quá trình phi toàn cầu hóa đã diễn ra trong 2 thập kỷ qua. Do đó, các mối quan hệ địa chính trị và địa kinh tế mới đang được hình thành ở cấp khu vực.
Tất cả các quốc gia ‘dao động’ đều là những cường quốc khu vực và vai trò của họ chỉ tăng lên khi vị thế khu vực của họ được củng cố. Quá trình di chuyển chuỗi sản xuất và cung ứng, cũng như quan hệ thương mại cho thấy, nhiều công ty đã dịch chuyển từ Trung Quốc sang các khu vực khác – chủ yếu ở Nam bán cầu.
Trong tương lai, một số nước ‘trong 6 quốc gia’ thậm chí sẽ trở thành trung tâm thương mại khu vực sầm uất hơn. Ví dụ điển hình nhất về điều này là Ấn Độ, khi các công ty Mỹ đang ngày càng thiết lập các nhà máy ở đó và xây dựng chuỗi cung ứng mới thông qua Ấn Độ.
Các thị trường năng lượng cũng đang được “khu vực hóa”, nằm trong tay của Saudi Arabia. Tương tự, thủ đô Riyadh của nước này cũng đang trở thành một trung tâm tài chính khu vực. Ngoài ra, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) nhấn mạnh rằng, thế giới đang ngày càng bị phân mảnh, các cường quốc tầm trung cấp khu vực sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Thứ ba, trong Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ và Indonesia vừa mới thoát khỏi ách áp bức của thực dân. Điều này hạn chế vai trò toàn cầu của họ trong kỷ nguyên lưỡng cực. Ngày nay, tất cả 6 quốc gia đó đều hoàn toàn tự chủ.
Nhưng đây không chỉ là hiện thân mới của Phong trào không liên kết hoặc các tổ chức khác tập trung vào Nam bán cầu (có thể là G-7 hoặc BRICS) – ảnh hưởng của họ yếu hơn.
Những ảnh hưởng khác của 6 quốc gia như đề cập bắt nguồn từ các xu hướng toàn cầu gần đây. Sức mạnh của họ được củng cố bởi đòn bẩy thu được từ sự cạnh tranh và đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc.
2. Các cường quốc khu vực đang củng cố sức mạnh
Cả 2 siêu cường đều muốn biến các quốc gia xung đột thành đồng minh, và điều này mang lại cho họ cơ hội để đối đầu với nhau. Do đó, sức mạnh và ảnh hưởng của Ấn Độ đã tăng lên mạnh mẽ kể từ khi nước này tham gia “Đối thoại an ninh 4 bên” – QUAD, đối trọng quan trọng nhất của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Brazil và Indonesia đã được hưởng lợi từ những nỗ lực của Trung Quốc để giành được hợp đồng đối với các nguồn khoáng sản quan trọng – đặc biệt là lithium, niken và nhôm.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, trong khi cả 6 quốc gia có thể nghiêng về Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc trong các vấn đề riêng lẻ, nhìn chung phần lớn giữ được thế tương đối cân bằng.
Hiện tại, họ được tự do trong nhiều lĩnh vực và có thể đặt cược vào một cường quốc chống lại một cường quốc khác. Ngoại lệ duy nhất là các công nghệ cơ bản, bao gồm chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử, viễn thông 5G và công nghệ sinh học: Ở đây, các cường quốc bậc trung chắc chắn sẽ phải đặt cược rõ ràng – vào Hoa Kỳ hoặc vào Trung Quốc.
Tương tự như vậy, các cường quốc ở Nam bán cầu, với nền kinh tế lớn và đang phát triển, đang củng cố ảnh hưởng của họ trong chính sách khí hậu toàn cầu. Không có sự tham gia của họ, không thể giải quyết được các vấn đề liên quan đến ô nhiễm và tác động của con người.
Các thị trường carbon đang ngày càng mang lại nhiều nguồn lực hơn cho các cường quốc bậc trung này, bất kể lượng khí thải thực tế của họ là bao nhiêu, bởi vì các công ty phương tây với nguyện vọng không có carbon cần được đền bù.
Nói rộng hơn, cuộc chiến chống phá rừng và khử cacbon đòi hỏi sự tham gia mang tính xây dựng của các cường quốc khu vực này – Brazil và Indonesia về nạn phá rừng và Ấn Độ và Indonesia về khử cacbon (đặc biệt là liên quan đến đốt than).
Cuối cùng, cơ chế của cái gọi là “Just Transition” đang tập trung vào việc tìm kiếm các giải pháp sáng tạo để tài trợ cho các mục tiêu khí hậu, với Nam Phi và Indonesia là những người đầu tiên nhận được tài trợ.
Mặc dù cho đến nay, kết quả của chương trình vẫn chưa thống nhất, nhưng đây là một ví dụ về cách 2 cường quốc tầm trung có thể đi đầu trong chính sách môi trường.
3. Họ đều đứng về phía Nga và ngày càng rời xa ảnh hưởng của Mỹ
Ngoài ra, 6 quốc gia này đã đóng một vai trò quan trọng trong các biện pháp trừng phạt và trong việc định hướng dư luận về cuộc xung đột ở Ukraine. Ngay từ đầu, họ đã từ chối hỗ trợ quân sự cho Ukraine và kiềm chế các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga.
Họ coi đó là vấn đề của châu Âu, không phải là vấn đề toàn cầu, và nó không thúc đẩy lợi ích quốc gia của họ trong phát triển, giảm nợ, an ninh lương thực, năng lượng.
Nhưng vai trò quan trọng nhất của các quốc gia này trong cuộc xung đột là không ủng hộ các biện pháp trừng phạt của phương tây đối với Nga – và trong một số trường hợp, họ phá hoại hoàn toàn các biện pháp trừng phạt của phương tây.
Ngoài ra, 6 quốc gia này đã đóng một vai trò quan trọng trong các biện pháp trừng phạt và trong việc định hướng dư luận về cuộc xung đột ở Ukraine. Ngay từ đầu, họ đã từ chối hỗ trợ quân sự cho Ukraine và kiềm chế các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga.
Họ coi đó là vấn đề của châu Âu, không phải là vấn đề toàn cầu, và nó không thúc đẩy lợi ích quốc gia của họ trong phát triển, giảm nợ, an ninh lương thực, năng lượng.
Nhưng vai trò quan trọng nhất của các quốc gia này trong cuộc xung đột là không ủng hộ các biện pháp trừng phạt của phương tây đối với Nga – và trong một số trường hợp, họ phá hoại hoàn toàn các biện pháp trừng phạt của phương tây.
Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những quốc gia xuất khẩu hàng hóa lớn nhất đến Nga, giúp Nga chống lại các lệnh trừng phạt của Mỹ và đồng minh. Đối với hoạt động này, Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với 4 công ty Thổ Nhĩ Kỳ.
Hầu hết các cường quốc tầm trung khác vẫn hoàn toàn trung lập, mặc dù Nam Phi đang nghiêng về Nga. Cả 6 nước đều duy trì hoặc mở rộng thương mại và các mối quan hệ khác với Nga ngay cả trước khi bùng nổ chiến sự.
IMF dự đoán rằng nền kinh tế Nga sẽ tăng trưởng 0,7% trong năm nay, hầu như không phải là tình trạng tê liệt mà phương tây mong đợi. 6 cường quốc bậc trung này đã giúp Nga ‘hấp thụ’ lệnh trừng phạt và sẽ tiếp tục làm như vậy. Đây là một trong những lý do tại sao điện Kremlin đã quyết định rằng, họ sẽ an toàn – bằng cách mở rộng thương mại về phía nam và phía đông.
Ảnh hưởng gia tăng đáng kể của các cường quốc bậc trung ở Nam bán cầu cũng thể hiện trong các sáng kiến hòa giải. Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành cường quốc bên ngoài có ảnh hưởng nhất trong cuộc xung đột Ukraine.
Tổng thống Recep Tayyip Erdogan đã trở thành nhà đàm phán chính về các thỏa thuận ngũ cốc, tham gia các cuộc đàm phán hòa bình khi chiến sự bùng nổ và có vị trí tốt để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán trong tương lai nếu các bên đồng ý.
Tổng thống Brazil, Luiz Inacio Lula da Silva đã đưa ra sáng kiến của riêng mình. Mặt khác, Ấn Độ đã có lập trường thoải mái hơn với hy vọng trở thành nhà môi giới hòa bình trong tương lai.
Do đó, các quốc gia này đã nhận được những cơ hội tốt để hòa giải trong các cuộc xung đột khác. Vị thế của Ấn Độ đặc biệt cao trong vấn đề này, nhất là bởi vì, tính đến tháng 2 năm 2023, nước này đã chiếm 8% lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đang hoạt động.
Cuối cùng, kinh nghiệm khoa học và kỹ thuật tích lũy được ở các quốc gia này khiến họ trở thành những điểm nóng tiềm năng cho phổ biến vũ khí hạt nhân. Quốc gia tiếp theo gia nhập câu lạc bộ hạt nhân, chắc chắn sẽ là một quốc gia từ Nam bán cầu.
Mặc dù điều này khó xảy ra trong ngắn hạn, đặc biệt là sau khi nối lại quan hệ hữu nghị với Saudi Arabia, nhưng Iran vẫn là mối đe dọa phổ biến vũ khí hạt nhân nguy hiểm nhất trên toàn thế giới.
Trong vấn đề công nghệ, Iran có thể trở thành một cường quốc hạt nhân bí mật có khả năng chế tạo bom trong một khoảng thời gian ngắn. Trong một kịch bản mà mối quan hệ với Saudi Arabia xấu đi nghiêm trọng và Iran phát triển bom hạt nhân, Saudi Arabia và có thể cả Thổ Nhĩ Kỳ, cũng sẽ làm đều đó.
Đó là lý do tại sao người ta tin rằng, trong số những nhượng bộ khác, Saudi Arabia đã đàm phán bảo đảm hạt nhân từ Hoa Kỳ để đổi lấy việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel.
4. Trật tự thế giới mới: Mang tên đa cực
Toàn cầu tập trung vào BRICS như đối trọng chính với quyền bá chủ của phương tây làm lu mờ phần lớn những gì đang xảy ra ở Nam bán cầu. Điều này là do sự tham gia của Trung Quốc và Nga trong BRICS đã che đậy sự trỗi dậy mang tính quyết định của 6 quốc gia này.
Trung Quốc là một trong 2 siêu cường của thế giới ‘lưỡng cực’. Việc coi Trung Quốc là một phần của Nam bán cầu là một sự nối dài, chủ yếu là do sức mạnh kinh tế và tham vọng địa chính trị rộng lớn của Trung Quốc.
Nga là một cường quốc bậc trung đang suy tàn. Cách tiếp cận xét lại của nó đối với thế giới không được chia sẻ bởi các cường quốc bậc trung ở Nam bán cầu. Vì vậy, chính sách của 2 quốc gia BRICS tích cực nhất về mặt địa chính trị được giải thích bằng một logic – khác với logic của ‘6 các quốc gia’.
Tuy nhiên, câu hỏi vẫn là, liệu các nước BRICS dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc có trở thành một thể chế chính thức với tuyên bố đại diện cho Nam bán cầu hay không.
Triển vọng này là một thách thức rõ ràng đối với phương tây, đặc biệt là khi 19 quốc gia khác đã bày tỏ mong muốn gia nhập nhóm. Nhưng lời đe dọa này khó có thể trở thành hiện thực.
Ấn Độ, một cường quốc BRICS có ảnh hưởng, kiên quyết chống lại những nỗ lực của Trung Quốc nhằm khuất phục nước này dưới quyền của mình. Saudi Arabia, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ (thành viên NATO), Ấn Độ và cả Nam Phi vẫn duy trì mối quan hệ quan trọng với Mỹ và các nước phương tây quan trọng khác, dù là về an ninh hay thương mại.
Các quốc gia này có thể đã quay lưng lại với Mỹ, nhưng không đủ để tích cực phản đối thông qua một tổ chức do Trung Quốc đứng đầu, được Nga hậu thuẫn. Cho đến nay, BRICS vẫn chưa chứng tỏ mình là một thế lực, có thể phát triển và thực hiện một chương trình nghị sự chung.
Do đó, có rất ít năng lực thể chế để Trung Quốc dẫn đầu. Cuối cùng, BRICS hoạt động trên cơ sở đồng thuận và việc thêm các thành viên mới với lợi ích riêng của họ sẽ khiến mục tiêu này càng khó đạt được hơn.
Một số người sẽ lập luận rằng, 6 cường quốc này đáng được chú ý kỹ lưỡng. Tất cả họ vẫn là những thị trường mới nổi. Ngoại trừ Ấn Độ, tăng trưởng ở các các nước này không đạt như kỳ vọng.
Nhóm này tụt lại phía sau trong việc phát triển các thể chế công và tăng cường pháp quyền. Các cuộc cách mạng công nghệ, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, sẽ tác động mạnh hơn đến Nam bán cầu so với các nền dân chủ tiên tiến và công nghiệp hóa, vì họ có ít nguồn lực hơn để đối phó với những hậu quả nguy hiểm về mặt chính trị của trí tuệ nhân tạo.
Và trong khi các mục tiêu môi trường của phương tây đã mang lại cho 6 nước này một số đòn bẩy, thì tác động của biến đổi khí hậu sẽ gây tổn hại và tổn thương đáng kể cho họ.
Tuy nhiên, nhìn chung, lập luận cho rằng, các cường quốc này đã lớn mạnh hơn và sẽ trở nên mạnh mẽ hơn nữa về mặt địa chính trị trong tương lai là khá thuyết phục.
Kết luận chính trị quan trọng nhất là Washington sẽ phải chơi một canh bạc nhiều hơn với 6 quốc gia này để ngăn chặn sự suy yếu đáng kể vị thế của Mỹ trong cán cân quyền lực toàn cầu.
Nhiều quốc gia trong số này đã từ chối ủng hộ Mỹ trong cuộc xung đột Nga-Ukraine hoặc sự cạnh tranh với Trung Quốc và tiếp tục lùi bước. Nguy cơ Trung Quốc và Nga sẽ tiếp quản BRICS mở rộng, và cùng với nó là toàn bộ Nam bán cầu, là có thật và cũng phải được tính đến.
Washington cần một chiến lược ngoại giao được cân nhắc kỹ lưỡng không chỉ cho từng quốc gia trong số 6 quốc gia chủ chốt, mà còn cho chính Nam bán cầu.
Có lẽ chiến lược tốt nhất sẽ bắt đầu với các chuyến thăm cấp cao nhất của các nhà ngoại giao chủ chốt của Mỹ. Và phần tiếp theo sẽ là một chiến lược giao dịch linh hoạt hơn sẽ mở ra khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
Nói rộng hơn, Hoa Kỳ phải dự đoán tốt hơn phản ứng của 6 quốc gia này và Nam bán cầu sẽ phản ứng như thế nào trước các quyết định chính sách quan trọng của Mỹ. Ví dụ, sự xa lánh của Nam bán cầu do chính sách của phương tây chống lại Nga đã khiến Washington bất ngờ.
Kể từ khi bùng nổ chiến sự ở Ukraine vào tháng ngày 24 tháng 2 năm 2022, Hoa Kỳ đã chơi trò đuổi bắt, và ngay cả trong việc này, họ cũng không thành công. Để đưa ra những dự đoán chính xác, người ta phải hiểu rõ hơn về tâm trạng và quan điểm của giới tinh hoa ở các quốc gia Nam bán cầu.
Thứ hai, sức mạnh và đòn bẩy của 6 quốc gia này (và các cường quốc tầm trung nói chung) sẽ bị ảnh hưởng nếu căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang mạnh mẽ thành một cuộc đối đầu theo định dạng Chiến tranh Lạnh. Sự mất đoàn kết về kinh tế sẽ ngày càng trầm trọng và 6 quốc gia này rất có thể sẽ phải xích lại gần bên này hay bên kia.
Cuối cùng, với sự củng cố của 6 quốc gia này, số lượng các quốc gia có đòn bẩy ảnh hưởng địa chính trị đã tăng lên trên thế giới. Vấn đề địa chính trị thực sự rất quan trọng trong bối cảnh xung đột hiện nay. Do đó, dự đoán kết quả địa chính trị – một quá trình vốn đã tốn nhiều công sức – cũng trở nên phức tạp hơn.
Nguồn: Trên mạng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét