Thứ Tư, 24 tháng 5, 2023

NHNN hạ lãi suất ĐH có làm lãi suất TT giảm ?

Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất điều hành có làm lãi suất thị trường giảm ?
Hiện nay doanh nghiệp đang hết sức khó khăn về thị trường để tiêu thụ đầu ra trong khi lãi suất cho vay bình quân vẫn ở mức cao, bất chấp lãi suất chính sách đã giảm liên tiếp 2 lần hồi tháng 3/2023. Đây đang là bài toán khó của nền kinh tế và chính phủ Việt Nam. Tín dụng thấp kỷ lục trong khi nợ xấu tiếp tục tăng vọt sẽ là rào cản lớn khiến chính sách giảm lãi suất chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt nam (NHNN) lần thứ ba này, cũng giống như hai lần trước đó, khó phát huy tác dụng và đạt mục tiêu theo kỳ vọng.

1. Chính sách lãi suất mới
Tối hôm qua, 23/5, NHNN đã công bố hai chính sách lãi suất quan trọng với thị trường tài chính Việt Nam, hai chính sách lãi suất này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 25/5/2023.

Một là, Quyết định số 950/QĐ-NHNN ngày 23/5/2023 về việc giảm suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD giảm từ mức 6,0%/năm xuống 5,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu giữ nguyên ở mức 3,5%/năm.

Việc giảm lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu mang lại tâm lý rất tích cực cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Với lạm phát đang giảm nhờ giá dầu giảm và cầu tiêu dùng yếu, thực tế, Việt Nam có nhiều dư địa giảm lãi suất chính sách ngay từ đầu năm 2023. Các chuyên trang tài chính - kinh tế trong nước như VnEconomy, CafeF,... đã hồ hởi đăng tin, bài phỏng vấn chuyên gia dự báo tích cực về sự phục hồi của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản nhờ dòng vốn từ NHTM đã trở nên rẻ hơn.

Tuy nhiên, điều lạ trong điều hành chính sách lần này là đi kèm với Quyết định hạ lãi suất chính sách ở mức 50 điểm cơ bản, NHNN lại ấn định mức trần lãi suất huy động cho các kỳ hạn huy động từ 6 tháng trở xuống.

Quyết định số 951/QĐ-NHNN ngày 23/5/2023 về quy định trần lãi suất với các loại kỳ hạn tiền gửi. Theo đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên ở mức 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm, riêng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ mức 6,0%/năm xuống 5,5%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.

Quyết định về trần lãi suất huy động đi kèm với Quyết định giảm lãi suất chính sách cho thấy NHNN dường như chưa chắc chắn về khả năng kiềm chế chi phí vốn cho doanh nghiệp và hộ gia đình thông qua việc cắt giảm lãi suất chính sách. Có thể, các rủi ro trong ngắn hạn (dưới 6 tháng) về thanh khoản, giảm chi phí vốn vay,... vẫn còn tồi tại.

Thực tế, việc áp trần lãi suất huy động là can thiệp mệnh lệnh hành chính vào các giao dịch thị trường. Việt Nam từng phải can thiệp như vậy trong thời kỳ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Lịch sử cho thấy việc áp dụng trần lãi suất huy động hoặc cho vay sẽ lập tức tạo ra các méo mó trên thị trường. Khi thiếu vốn, các NHTM sẽ phải tìm cách trả thêm hoa hồng và thưởng để huy động; tức là huy động với lãi suất mà thị trường chấp nhận được trong khi hạch toán chi phí huy động không minh bạch trên bảng cân đối tài chính của họ.

Trong trường hợp lần này, điều tốt là trần lãi suất chỉ áp dụng cho các khoản huy động từ 6 tháng trở xuống. Rất có thể NHNN kỳ vọng chính sách này sẽ giúp NHTM cân đối lại nguồn vốn huy động, huy động vốn có kỳ hạn trên 6 tháng với tỷ trọng cao hơn, giảm thiểu rủi ro kỳ hạn dẫn tới mất thanh khoản cục bộ, tức thời trong hoạt động.

Rõ ràng, trần nợ huy động với các khoản tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống cho thấy NHNN chưa hề tự tin vào việc giảm lãi suất chính sách có thể phát huy tác dụng làm giảm lãi suất cho vay.

Mặc dù NHNN đã 2 lần trước đó giảm lãi suất chính sách, mỗi lần 100 điểm cơ bản (với một số loại lãi suất chính sách nhất định), nhưng lãi suất dường như chỉ giảm ở đầu vào (huy động), trong khi đầu ra là lãi suất cho vay vẫn ở mức rất cao.

Thị trường tài chính Việt Nam đang chứng kiến một nghịch lý: chi phí vốn đầu vào (lãi suất chính sách, lãi suất huy động) giảm nhưng chi phí vốn đầu ra (lãi suất cho vay) không giảm với tốc độ tương ứng; duy trì ở mức rất cao. 
Thị trường bất động sản đóng băng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đóng băng trong khi cầu thế giới suy giảm, nợ xấu tích tụ và tăng mạnh trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.

2. Câu hỏi đặt ra là liệu có phải các NHTM đang tham lam hay đơn giản là các tổ chức này cũng lâm vào hoàn cảnh "lực bất tòng tâm"?

Và nguyên nhân nào khiến hệ thống NHTM trong không thể giảm lãi suất cho vay và huy động như kỳ vọng?

Về lý thuyết, khi lãi suất huy động và cho vay vẫn tăng cao bất chấp đầu vào của nguồn vốn (trong và ngoài nước) đều có giá thấp, lạm phát kỳ vọng thấp thì nguyên nhân xuất phát từ hai phương diện: (i) các vấn đề nội tại của hệ thống các NHTM, thông thường là do chất lượng tài sản (nợ xấu) tăng cao hoặc không xử lý được trong một thời gian dài; điều này khiến dự phòng rủi ro cao, chi phí vốn lớn, thanh khoản cũng chịu áp lực cao khiến NHTM buộc phải huy động vốn ở mức cao và cạnh tranh lãi suất gay gắt trong nội bộ; (ii) niềm tin của người gửi tiền xuống thấp.

Tuy nhiên, trong bối cảnh thị tài sản không có biến động quá lớn, các NHTM hoạt động bình ổn như hiện nay, niềm tin của người gửi tiền - về cơ bản - vẫn lạc quan.

Do vậy, chất lượng tài sản của hệ thống các NHTM có thể là nguyên nhân chính dẫn đến lãi suất khó hạ theo nguyên tắc thị trường và mong muốn của chính phủ. 

Điều này có nghĩa là nợ xấu, BĐS xấu, TPDN xấu và doanh nghiệp xác sống khiến chi phí vốn khó giảm

Theo báo cáo thị trường tiền tệ của Công ty Chứng khoán SSI, trong tháng 4/2023 mặt bằng lãi suất cho vay vẫn ở mức cao hơn so với thời điểm trước dịch Covid-19, dao động ở mức 10-10,5%/năm kỳ hạn 6 tháng; ở mức 11-12%/năm kỳ hạn 12 tháng cho doanh nghiệp sản xuất thông thường; lãi suất vay tiêu dùng hay cho vay mua nhà vẫn duy trì ở mức tương đối cao, khoảng 14%/năm.

Mong đợi lãi suất cho vay giảm nhờ lãi suất chính sách giảm đã không đạt kỳ vọng. Các diễn biến này không nằm ngoài dự báo của chuyên gia tài chính. Thực tế một lượng tiền lớn đang bị "chôn vùi" trong đống hàng tồn kho của các doanh nghiệp (do cầu thị trường thu hẹp, tiêu dùng ảm đạm), trong nợ xấu của ngân hàng thương mại, trong các dự bán BĐS xấu và dở dang và trong trái phiếu doanh nghiệp xấu là nguyên nhân khiến lãi suất cho vay không thể giảm.

Nợ xấu tăng mạnh trong năm 2022 và tiếp tục tăng nhanh đến mức đáng báo động trong quý 1/2023. Gần 90% ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng trong quý I năm 2023, phần lớn 
nợ xấu tăng hai chữ số. Tỷ lệ nợ xấu tại một số ngân hàng vượt ngưỡng 3%. Trong khi đó, lãi suất vay vốn cao trong khi thị trường đầu ra bị thu hẹp đã khiến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không thể hấp thụ thêm vốn. Dư nợ tín dụng của cả hệ thống NHTM đến ngày 27/4/2023 chỉ đạt khoảng 12,28 triệu tỷ đồng, tăng 3,04% so với cuối năm 2022, tăng 9,92% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu do NHNN công bố.

Để có tiền trích dự phòng và đáp ứng tiền thanh khoản cho tài sản xấu này, các NHTM đang phải gồng gánh một khoản chi phí vốn bình quân lớn. Do vậy, NHTM buộc phải lấy lãi cao hơn ở doanh nghiệp, hộ gia đình vay mới để bù đắp vào rủi ro này trên báo cáo kết quả kinh doanh của mình. Nói cách khác, doanh nghiệp làm ăn được đang phải nuôi doanh nghiệp xác chết và các doanh nghiệp ốm yếu.

Vấn đề ở chỗ, cho tới nay, rất nhiều bàn thảo về giải cứu doanh nghiệp, hạ lãi suất cho doanh nghiệp, tăng khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp nhưng chưa một chính sách nào hướng tới việc tách các khối u của nền kinh tế như nợ xấu, doanh nghiệp xác sống, dự án BĐS xấu, TPDN xấu ra khỏi bảng cân đối của NHTM, khoanh vùng lại, khu trú lại bằng biện pháp kỹ thuật để đảm bảo NHTM không phải gồng gánh chi phí tài chính giấu giếm các khối u hoặc nuôi các khối u như vậy. Chỉ bằng cách tách các khối u "doanh nghiệp và tài sản xấu" ra khỏi hệ thống tài chính, NHTM sẽ có thêm thời gian, sức lực để cung ứng vốn rẻ hơn cho các doanh nghiệp còn sống, doanh nghiệp tốt. Các doanh nghiệp còn sống và còn tốt không còn phải gánh trên lưng "trách nhiệm vô hình" với các doanh nghiệp xác sống, với nợ xấu tồn tích, với BĐS xấu hay TPDN xấu.


Thực tế, kết quả thực hiện các Nghị quyết về xử lý nợ xấu tại các NHTM thường được báo cáo với thành tích đáng khích lệ. Tuy nhiên, chúng chỉ hỗ trợ xử lý được nợ xấu có tài sản đảm bảo (TSĐB) tốt; TSĐB có thể thanh khoản, không bị đánh giá quá cao so với giá trị thị trường và với khoản vay mà nó đảm bảo. Những TSĐB này phần lớn đều thuộc về các NHTM lớn có uy tín. Trong khi đó, các NHTM nhỏ (chiếm tới 45 - 50% nợ xấu của hệ thống) thì TSĐB khó xử lý bởi nhiều nguyên nhân: chất lượng tài sản đảm bảo thấp, TSĐB hình thành từ vốn vay còn dở dang và khó thanh khoản thậm chí mất hẳn tính thanh khoản, tính pháp lý khi nhận TSĐB cho khoản vay không được thẩm định tốt….

Khi TSĐB không được xử lý, NHTM nhỏ tiếp tục phải trích Dự phòng rủi ro (DPRR) đầy đủ cho nợ xấu không xử lý được, không có dòng tiền quay trở lại NHTM cho hoạt động kinh doanh, chi phí vốn của NHTM sẽ tăng cao, thanh khoản giảm và họ buộc phải tăng cường huy động từ dân cư và doanh nghiệp để duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, nhiều NHTM không thể cắt giảm lãi suất bất chấp các điều kiện vĩ mô và nỗ lực quản trị hành chính của Chính phủ, NHNN. Thời gian qua, và dự báo tình trạng này còn có thể tiếp tục kéo dài, sự phân hóa về lãi suất trong hệ thống NHTM khó giải quyết. Sự phân hóa này dẫn tới các NHTM lớn dù không gặp vấn đề về thanh khoản, nhưng để duy trì lợi thế cạnh tranh cũng buộc phải tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay tương ứng.

Kết quả là, vì vấn đề lãi suất nên khu vực doanh nghiệp mất phần nào lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu với các nền kinh tế có quy mô tương đương. Đặc biệt, trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục phá giá đồng NDT, các nền kinh tế duy trì xu hướng nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ để thúc đẩy xuất khẩu, đồng VND khó có thể hạ bởi các yếu tố địa chính trị, trong đó có tránh việc bị liệt kê vào danh sách “thao túng tiền tệ” như Mỹ nhiều lần đe dọa và cảnh báo.

Với các phân tích ở trên và đặc biệt là chính sách giải cứu doanh nghiệp, chính sách nhắm vào việc giảm lãi suất chưa đồng bộ và đúng hướng, thị trường và nhà đầu tư có thể sẽ không được chứng kiến đợt giảm lãi suất cho vay trong vài tháng tới như kỳ vọng. Điều này cũng đồng nghĩa là chúng ta chưa nên quá lạc quan vào sự phục hồi của thị trường chứng khoán và BĐS cũng như sự phục hồi của nền kinh tế.

Nguồn: Tổng hợp từ trên mạng
----------------

23/05/2023 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hạ lãi suất điều hành lần thứ 3, áp dụng từ 25/5

Trâm Anh - Ngân hàng Nhà nước quyết định giảm loạt lãi suất điều hành áp dụng từ ngày 25/5 tới đây. Đây là lần thứ ba Ngân hàng Nhà nước quyết định giảm lãi suất điều hành để hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế kể từ đầu năm 2023...

Việc giảm mặt bằng lãi suất sẽ hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn, góp phần phục hồi sản xuất.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua, triển vọng kinh tế toàn cầu phục hồi thiếu chắc chắn, lạm phát giảm chậm, rủi ro hệ thống ngân hàng phát sinh ở một số nền kinh tế lớn và nguy cơ suy thoái kinh tế khiến nhiều ngân hàng trung ương điều chỉnh chậm lại đà tăng lãi suất.

Còn ở trong nước, tăng trưởng kinh tế còn nhiều khó khăn, lạm phát được kiểm soát; thanh khoản của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được đảm bảo.

Do đó, tiếp tục thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm mặt bằng lãi suất, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn, góp phần phục hồi sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh các mức lãi suất, có hiệu lực từ ngày 25/5.

Cụ thể, một là, Quyết định số 950/QĐ-NHNN ngày 23/5/2023 về mức lãi suất thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng; lãi suất tái cấp vốn; lãi suất tái chiết khấu.

Theo đó, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng giảm từ mức 6,0%/năm xuống 5,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu giữ nguyên ở mức 3,5%/năm.

Hai là, Quyết định số 951/QĐ-NHNN ngày 23/5/2023 về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam (VND) của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014.

Theo đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên ở mức 0,5%/năm.

Đáng chú ý, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm.

Riêng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ mức 6,0%/năm xuống 5,5%/năm.


Còn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.

Ngân hàng Nhà nước cho biết bám sát Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ để phấn đấu giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, người dân, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế.


Trước đó, trong tháng 3 và tháng 4, Ngân hàng Nhà nước đã hai lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất với mức giảm 0,5-1%/năm nhằm hỗ trợ nền kinh tế.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo tổ chức tín dụng duy trì mặt bằng lãi suất huy động ổn định, hợp lý, phù hợp với khả năng cân đối vốn, khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh và năng lực quản lý rủi ro; không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tiền tệ và mặt bằng lãi suất thị trường.

Nhà điều hành cũng khuyến khích tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Theo nhìn nhận của giới phân tích, Ngân hàng Nhà nước sẽ có nhiều dư địa để nới lỏng chính sách tiền tệ hơn trong năm 2023, mặt bằng lãi suất huy động 12 tháng duy trì quanh ngưỡng 7% và lãi suất cho vay bình quân quanh ngưỡng 10%.

Mức lãi suất này được kỳ vọng bởi cơ sở lạm phát bình quân được kiểm soát tốt quanh 4-4,5%, với áp lực từ lạm phát toàn cầu và tỷ giá trong nước được dự báo bớt căng thẳng hơn so với năm 2022, việc đứt gãy chuỗi cung ứng dần được cải thiện và nhu cầu tiêu thụ toàn cầu sụt giảm giúp giá hàng hoá hạ nhiệt, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) được dự báo sẽ sớm kết thúc chu kỳ tăng lãi suất vào cuối quý 2/2023.
https://vneconomy.vn/ngan-hang-nha-nuoc-tiep-tuc-ha-lai-suat-dieu-hanh-lan-thu-3-ap-dung-tu-25-5.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét