Bài này hay, rất đáng đọc.
Richard A. Bitzinger • 20/05/23 Các đồng minh châu Á của Mỹ có thể sở hữu vũ khí hạt nhân hay không? Viễn cảnh này xuất phát từ những lo ngại đang diễn ra ở Tokyo, Seoul và thậm chí cả ở Canberra cho thấy cam kết an ninh của Washington đối với châu Á (đặc biệt là lời cam kết răn đe hạt nhân kéo dài) có thể không đáng tin cậy.Châu Á bắt đầu chạy đua phát triển vũ khí hạt nhân ?
Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol (phải) bắt tay Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida (trái) trong cuộc họp báo chung sau cuộc gặp mặt tại văn phòng tổng thống vào ngày 07/05/2023 tại Seoul, Hàn Quốc. Chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản tới Hàn Quốc diễn ra trước thềm hội nghị thượng đỉnh G7, dự kiến được tổ chức tại Tokyo từ ngày 19/05 đến 21/05/2023. (Ảnh: Jung Yeon-Je - Pool/Getty Images)
Các bài báo (tại đây, tại đây và tại đây) lập luận rằng các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc nên cân nhắc việc phòng ngừa rủi ro và phát triển lực lượng hạt nhân của riêng mình.
Các nhà phân tích như ông Walter Russell Mead đã đi xa đến mức lập luận rằng một số người ủng hộ chính sách "Nước Mỹ Trên Hết", chẳng hạn như cựu Tổng thống Donald Trump, thậm chí có thể hoan nghênh ý tưởng về việc “hạt nhân hóa châu Á”. Việc loại bỏ những người bạn châu Á của Washington khỏi chiếc ô hạt nhân của Hoa Kỳ có thể làm hài lòng những người tin rằng các quốc gia này nên hành động nhiều hơn (và yêu cầu Washington hành động ít hơn) để bảo vệ chính họ.
Công chúng hiểu rằng Nhật Bản sở hữu loại năng lực công nghệ có thể chế tạo bom nguyên tử trong một khoảng thời gian rất ngắn - nhiều nhất là vài tháng, có thể là vài năm. Hàn Quốc và Úc có lẽ cách tương lai đó không xa. (Trên thực tế, Canberra đã nghiêm túc xem xét ý tưởng phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình vào những năm 1950 và 1960). Nếu họ chế tạo và thử nghiệm vũ khí hạt nhân, điều này sẽ gây tiếng vang khắp châu Á và thậm chí là phần còn lại của thế giới.
Tuy nhiên, thách thức không nhất thiết nằm ở việc chế tạo bom nguyên tử, mà nằm ở tất cả các yếu tố khác cần thiết để tạo ra một lực lượng răn đe hạt nhân đáng tin cậy.
Việc trở thành một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân khó khăn hơn rất nhiều so với những gì người ta tưởng.
Đầu tiên, một quốc gia cần phải xác minh năng lực hạt nhân của mình. Để đảm bảo một lực lượng hạt nhân đáng tin cậy, các quốc gia này rất có thể sẽ cần thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm trong vài năm. Và họ sẽ tiến hành những thử nghiệm này ở đâu? Úc có rất nhiều vùng đất trống, nhưng nhiều người Nhật Bản có thể sẽ phản đối việc thử nghiệm (thậm chí dưới lòng đất) trên lãnh thổ của quốc gia này.
Thứ hai, làm thế nào để triển khai một vũ khí như vậy? Máy bay dường như là một lựa chọn hợp lý, nhưng Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc không sở hữu máy bay chuyên dụng, máy bay ném bom hoặc máy bay tấn công nào có khả năng mang vũ khí hạt nhân.
Đầu tiên, một quốc gia cần phải xác minh năng lực hạt nhân của mình. Để đảm bảo một lực lượng hạt nhân đáng tin cậy, các quốc gia này rất có thể sẽ cần thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm trong vài năm. Và họ sẽ tiến hành những thử nghiệm này ở đâu? Úc có rất nhiều vùng đất trống, nhưng nhiều người Nhật Bản có thể sẽ phản đối việc thử nghiệm (thậm chí dưới lòng đất) trên lãnh thổ của quốc gia này.
Thứ hai, làm thế nào để triển khai một vũ khí như vậy? Máy bay dường như là một lựa chọn hợp lý, nhưng Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc không sở hữu máy bay chuyên dụng, máy bay ném bom hoặc máy bay tấn công nào có khả năng mang vũ khí hạt nhân.
Canberra đã cho nghỉ hưu lực lượng máy bay ném bom tầm trung (F-111C) hơn một thập kỷ trước. Cả ba quốc gia đều vận hành máy bay chiến đấu F-35 đang được thử nghiệm để mang vũ khí hạt nhân, nhưng Hoa Kỳ có thể không muốn sửa đổi F-35 của các quốc gia này (nghĩa là mở “hộp đen” được niêm phong).
Một lựa chọn khác là gắn vũ khí hạt nhân vào tên lửa. Nỗ lực này liên quan đến việc thu nhỏ vũ khí hạt nhân để gắn vào tên lửa, và sau đó là phát triển tên lửa đó. Đối với hầu hết các quốc gia, một tên lửa nhiên liệu rắn chuyên dụng sẽ phải được chế tạo gần như từ đầu.
Sau đó các quốc gia này sẽ cất giữ những tên lửa này ở đâu, trong hầm chứa (Nhật Bản dễ gặp động đất) hay trên các bệ phóng di động? Các quốc gia đông dân như Nhật Bản và Hàn Quốc có thể sẽ vấp phải sự phản đối đáng kể của người dân địa phương đối với việc triển khai những vũ khí như vậy trong khu vực lân cận của họ, vì chúng sẽ là mục tiêu có giá trị cao cho cuộc tấn công đầu tiên của kẻ thù.
Giải pháp khả thi nhất là triển khai các tên lửa này trên tàu ngầm. Nỗ lực này đòi hỏi một khoang tên lửa phóng từ tàu ngầm chuyên dụng để phóng dưới nước, thậm chí có thể là một chiếc tàu ngầm mới. Nếu các tàu ngầm này chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN), thì sẽ gặp phải một trở ngại khác về công nghệ (lò phản ứng hạt nhân nhỏ có độ an toàn cao).
Kết quả là Hàn Quốc đã thử một tên lửa phóng từ tàu ngầm như vậy trong khi Úc đề nghị mua tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với sự hợp tác của Hoa Kỳ và Anh.
Trên hết, không có loại nào trong số này có giá rẻ. Vương quốc Anh đang tiêu tốn 31 tỷ bảng Anh (gần 39 tỷ USD) để tạo ra một hạm đội gồm 4 chiếc SSBN lớp Dreadnought, và London chỉ đơn giản là mua tên lửa Trident II phóng từ tàu ngầm có sẵn từ Hoa Kỳ (điều mà Washington khó có thể làm cho các đồng minh châu Á của mình).
Đồng thời, các quốc gia này sẽ phải xây dựng tất cả các cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ vũ khí hạt nhân. Để đảm bảo an toàn cho vũ khí hạt nhân, cả căn cứ không quân và căn cứ hải quân sẽ phải xây dựng các cơ sở lưu trữ chuyên dụng và cực kỳ an toàn. Các kỹ sư hạt nhân cũng phải được đào tạo để bảo trì và xử lý những quả bom và đầu đạn này.
Họ cũng phải phát triển các hệ thống chỉ huy và kiểm soát chuyên biệt để đảm bảo việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, để ngăn chặn việc trang bị trái phép hoặc kích nổ đầu đạn hạt nhân, các cơ chế an toàn được gọi là Liên kết hành động cho phép (PAL) phải được trang bị cho từng loại vũ khí. Để tránh bị tấn công, các PAL này phải được mã hóa đúng cách.
Tiếp theo, Tokyo, Seoul và Canberra sẽ phải phát triển các giao thức của họ để triển khai và trang bị lực lượng hạt nhân. Nhiều khả năng, tổng thống hoặc thủ tướng sẽ chỉ huy "quả cầu hạt nhân" chứa mã phóng, và đó cũng là người có thẩm quyền tối cao trong việc triển khai vũ khí hạt nhân.
Một lựa chọn khác là gắn vũ khí hạt nhân vào tên lửa. Nỗ lực này liên quan đến việc thu nhỏ vũ khí hạt nhân để gắn vào tên lửa, và sau đó là phát triển tên lửa đó. Đối với hầu hết các quốc gia, một tên lửa nhiên liệu rắn chuyên dụng sẽ phải được chế tạo gần như từ đầu.
Sau đó các quốc gia này sẽ cất giữ những tên lửa này ở đâu, trong hầm chứa (Nhật Bản dễ gặp động đất) hay trên các bệ phóng di động? Các quốc gia đông dân như Nhật Bản và Hàn Quốc có thể sẽ vấp phải sự phản đối đáng kể của người dân địa phương đối với việc triển khai những vũ khí như vậy trong khu vực lân cận của họ, vì chúng sẽ là mục tiêu có giá trị cao cho cuộc tấn công đầu tiên của kẻ thù.
Giải pháp khả thi nhất là triển khai các tên lửa này trên tàu ngầm. Nỗ lực này đòi hỏi một khoang tên lửa phóng từ tàu ngầm chuyên dụng để phóng dưới nước, thậm chí có thể là một chiếc tàu ngầm mới. Nếu các tàu ngầm này chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN), thì sẽ gặp phải một trở ngại khác về công nghệ (lò phản ứng hạt nhân nhỏ có độ an toàn cao).
Kết quả là Hàn Quốc đã thử một tên lửa phóng từ tàu ngầm như vậy trong khi Úc đề nghị mua tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với sự hợp tác của Hoa Kỳ và Anh.
Trên hết, không có loại nào trong số này có giá rẻ. Vương quốc Anh đang tiêu tốn 31 tỷ bảng Anh (gần 39 tỷ USD) để tạo ra một hạm đội gồm 4 chiếc SSBN lớp Dreadnought, và London chỉ đơn giản là mua tên lửa Trident II phóng từ tàu ngầm có sẵn từ Hoa Kỳ (điều mà Washington khó có thể làm cho các đồng minh châu Á của mình).
Đồng thời, các quốc gia này sẽ phải xây dựng tất cả các cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ vũ khí hạt nhân. Để đảm bảo an toàn cho vũ khí hạt nhân, cả căn cứ không quân và căn cứ hải quân sẽ phải xây dựng các cơ sở lưu trữ chuyên dụng và cực kỳ an toàn. Các kỹ sư hạt nhân cũng phải được đào tạo để bảo trì và xử lý những quả bom và đầu đạn này.
Họ cũng phải phát triển các hệ thống chỉ huy và kiểm soát chuyên biệt để đảm bảo việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, để ngăn chặn việc trang bị trái phép hoặc kích nổ đầu đạn hạt nhân, các cơ chế an toàn được gọi là Liên kết hành động cho phép (PAL) phải được trang bị cho từng loại vũ khí. Để tránh bị tấn công, các PAL này phải được mã hóa đúng cách.
Tiếp theo, Tokyo, Seoul và Canberra sẽ phải phát triển các giao thức của họ để triển khai và trang bị lực lượng hạt nhân. Nhiều khả năng, tổng thống hoặc thủ tướng sẽ chỉ huy "quả cầu hạt nhân" chứa mã phóng, và đó cũng là người có thẩm quyền tối cao trong việc triển khai vũ khí hạt nhân.
Nhưng còn lực hạt nhân do tàu ngầm phóng ra thì sao? Trên lý thuyết, bất chấp "quy tắc hai người", các chỉ huy tàu ngầm trên tàu SSBN có quyền tự chủ trong việc phóng theo thẩm quyền của họ. Những chi tiết này sẽ cần phải được làm rõ.
Trên hết, các quốc gia này sẽ phải tự mình giải quyết tất cả những thách thức về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật nêu trên. Hoa Kỳ chắc chắn sẽ không giúp được gì. Xây dựng một lực lượng hạt nhân đáng tin cậy sẽ tiêu tốn hàng tỷ USD và phải mất hàng thập kỷ để hiện thực hóa.
Trong khi chờ đợi, làn sóng phản đối trong nước đối với việc “sở hữu vũ khí hạt nhân” có thể rất dữ dội. Người ta có thể mong đợi những người cực hữu ở cả Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ thích ý tưởng này. Những người theo chủ nghĩa dân tộc cực kỳ bảo thủ của Nhật Bản từ lâu đã mong mỏi giành lại di sản đế quốc của nước này; đồng thời sở hữu một lực lượng quân sự khổng lồ (bao gồm cả vũ khí hạt nhân) có khả năng bảo vệ đất nước một cách độc lập. Hàn Quốc có thể học theo chỉ để theo kịp người Nhật.
Mặt khác, phần lớn dân số Nhật Bản - những người vẫn mạnh mẽ chống chủ nghĩa quân phiệt, phản đối chiến tranh và phản đối hạt nhân - có thể cảnh giác với một "Nhật Bản hạt nhân". Các nhóm tự do và cánh tả ở Hàn Quốc và Úc cũng có khả năng phản đối phi hạt nhân hóa như vậy, đặc biệt nếu điều này được coi là gây bất ổn an ninh khu vực.
Một châu Á sở hữu vũ khí hạt nhân không phải là điều không tưởng. Tuy nhiên, đó cũng không phải là điều có thể được thực hiện với giá rẻ, vội vàng hoặc không kích động một cơn bão chính trị.
Richard A. Bitzinger
Tác giả Richard A. Bitzinger là một nhà phân tích an ninh quốc tế độc lập. Trước đây, ông là thành viên cấp cao của Chương trình Chuyển đổi Quân sự tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, và ông đã từng đảm nhận các công việc trong chính phủ Hoa Kỳ và tại nhiều tổ chức tư vấn khác nhau. Nghiên cứu của ông tập trung vào các vấn đề an ninh và quốc phòng liên quan đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc quân sự, hiện đại hóa quân đội và phổ biến vũ khí trong khu vực.
Trên hết, các quốc gia này sẽ phải tự mình giải quyết tất cả những thách thức về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật nêu trên. Hoa Kỳ chắc chắn sẽ không giúp được gì. Xây dựng một lực lượng hạt nhân đáng tin cậy sẽ tiêu tốn hàng tỷ USD và phải mất hàng thập kỷ để hiện thực hóa.
Trong khi chờ đợi, làn sóng phản đối trong nước đối với việc “sở hữu vũ khí hạt nhân” có thể rất dữ dội. Người ta có thể mong đợi những người cực hữu ở cả Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ thích ý tưởng này. Những người theo chủ nghĩa dân tộc cực kỳ bảo thủ của Nhật Bản từ lâu đã mong mỏi giành lại di sản đế quốc của nước này; đồng thời sở hữu một lực lượng quân sự khổng lồ (bao gồm cả vũ khí hạt nhân) có khả năng bảo vệ đất nước một cách độc lập. Hàn Quốc có thể học theo chỉ để theo kịp người Nhật.
Mặt khác, phần lớn dân số Nhật Bản - những người vẫn mạnh mẽ chống chủ nghĩa quân phiệt, phản đối chiến tranh và phản đối hạt nhân - có thể cảnh giác với một "Nhật Bản hạt nhân". Các nhóm tự do và cánh tả ở Hàn Quốc và Úc cũng có khả năng phản đối phi hạt nhân hóa như vậy, đặc biệt nếu điều này được coi là gây bất ổn an ninh khu vực.
Một châu Á sở hữu vũ khí hạt nhân không phải là điều không tưởng. Tuy nhiên, đó cũng không phải là điều có thể được thực hiện với giá rẻ, vội vàng hoặc không kích động một cơn bão chính trị.
Richard A. Bitzinger
Tác giả Richard A. Bitzinger là một nhà phân tích an ninh quốc tế độc lập. Trước đây, ông là thành viên cấp cao của Chương trình Chuyển đổi Quân sự tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, và ông đã từng đảm nhận các công việc trong chính phủ Hoa Kỳ và tại nhiều tổ chức tư vấn khác nhau. Nghiên cứu của ông tập trung vào các vấn đề an ninh và quốc phòng liên quan đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc quân sự, hiện đại hóa quân đội và phổ biến vũ khí trong khu vực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét