GDP của Mỹ đang bị thổi phòng để dọa các nước khác ?
Vào tháng 8/2023, nhiều người Nga đã vui mừng, trước cái mà Ngân hàng thế giới gọi Nga là nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới (dựa vào GDP tính theo sức mua tương đương – PPP năm 2022). Trước đó, Nga đứng ở vị trí thứ 6 – sau Đức. Và năm 2022, Đức và Nga đã đổi chỗ cho nhau. Tuy nhiên, nếu theo cách tiếp cận chính xác hơn, không còn nghi ngờ gì nữa, Nga thậm chí không phải là nền kinh tế thứ 5 mà là nền kinh tế thứ 4 trên thế giới, trước không chỉ Đức mà còn cả Nhật BảnNgân hàng thế giới đã tính toán GDP của các nước trên thế giới vào năm 2022 theo sức mua tương đương (PPP).
Sức mua tương đương (PPP) xác định: Cần bao nhiêu tiền, tính bằng đồng nội tệ, của các quốc gia khác nhau, để mua ‘một giỏ hàng tiêu dùng’ nhất định, tính bằng đô la Mỹ.
1. GDP của Nga và Đức
Ở Nga, con số này hóa ra là 5,33 nghìn tỷ đô la. Bốn vị trí đầu tiên được giữ bởi Trung Quốc (30,3 nghìn tỷ USD), Mỹ (25,5 nghìn tỷ USD), Ấn Độ (11,8 nghìn tỷ USD) và Nhật Bản (5,7 nghìn tỷ USD).
Và đối với Đức, con số này hóa ra là 5,31 nghìn tỷ USD. Nhiều nhà kinh tế đã nhận xét đúng về số liệu của Ngân hàng thế giới: Sự khác biệt giữa GDP của Đức và Nga “nằm trong giới hạn sai số thống kê”.
Tất nhiên, không có gì đảm bảo rằng Nga sẽ có thể duy trì vị trí thứ 5 danh dự mà Ngân hàng thế giới trao cho nước này vào năm 2023.
Và mặc dù Đức, quốc gia ‘láng giềng’ với Nga trong bảng xếp hạng các nền kinh tế thế giới, đang hoạt động rất kém, nhưng nước này vẫn có thể lấy lại vị trí thứ 5 đã mất, đẩy Nga trở lại vị trí thứ 6 trước đó.
Thực tế là, thứ hạng của các quốc gia không chỉ phụ thuộc vào thành công thực sự của họ trong việc sản xuất nhiều loại hàng hóa khác nhau, mà còn phụ thuộc vào sức mua của đồng tiền quốc gia.
Vào năm 2023, chúng ta thấy tỷ giá đồng Rúp/đô la giảm mạnh, từ đó dẫn đến giá đồng Rúp trên thị trường trong nước tăng.
Ví dụ, tỷ lệ khối lượng sản xuất thực tế ở Đức và Nga có thể giữ nguyên, nhưng sức mua tiền tệ của từng quốc gia (PPP) – tương ứng là đồng Euro và đồng Rúp – có thể thay đổi.
Nhưng những so sánh quốc tế như vậy rất đáng nghi ngờ vì một lý do khác. Chỉ số GDP được tính bằng đơn vị tiền tệ quốc gia, đã đặt ra, những câu hỏi và nghi ngờ.
3. Vấn đề của chỉ số GDP
Một xu hướng gần như phổ biến ở tất cả các nước là tỷ trọng của các ngành công nghiệp, trong các ngành của nền kinh tế (nông nghiệp, khai thác mỏ và sản xuất, xây dựng và một số ngành khác) trong GDP đều giảm dần, trong khi tỷ trọng của khu vực dịch vụ lại tăng lên.
Tất nhiên, trong lĩnh vực dịch vụ, có những dịch vụ quan trọng đối với cả các doanh nghiệp và cá nhân.
Đó là các dịch vụ vận tải, thông tin liên lạc, thương mại bán lẻ, tiện ích công cộng, … Nhưng đồng thời, ở nhiều quốc gia, các lĩnh vực dịch vụ đang phát triển với tốc độ chóng mặt, nói một cách nhẹ nhàng thì không thể gọi là “quan trọng”.
Chúng thường được gọi là “nghi ngờ” hoặc “không hiệu quả”.
Ví dụ, chúng ta có thể trích dẫn dữ liệu từ Hoa Kỳ. Ở đó, năm 1992, nông nghiệp chiếm 1,6% GDP; sản xuất chiếm 15,7%.
Vào cuối năm 2022, tỷ trọng của các lĩnh vực này trong GDP của Mỹ lần lượt giảm xuống còn 1,1% và 11,0%.
Lưu ý là, tỷ trọng của khu vực dịch vụ tài chính và bất động sản năm 1992 là 18,6% và năm 2022 tăng lên 20,2%.
Năm 2022, khu vực thực tế của nền kinh tế, bao gồm các ngành khai thác và sản xuất, cũng như nông lâm nghiệp, chiếm 14,0% GDP và khu vực tài chính (bao gồm cả giao dịch bất động sản) chiếm gần gấp rưỡi.
Nhưng các nhà kinh tế học nghiêm túc đã nói khá chính xác rằng, các dịch vụ tài chính và thương mại không tạo ra bất kỳ sản phẩm thực tế nào, chúng chỉ phân phối lại một sản phẩm đã được tạo ra trong khu vực thực tế của nền kinh tế.
Vào cuối năm 2022, tỷ trọng của các lĩnh vực này trong GDP của Mỹ lần lượt giảm xuống còn 1,1% và 11,0%.
Nhưng tỷ trọng của khu vực dịch vụ tài chính và bất động sản năm 1992 là 18,6% và năm 2022 tăng lên 20,2%.
Năm 2022, khu vực thực tế của nền kinh tế, bao gồm các ngành khai thác và sản xuất, cũng như nông lâm nghiệp, chiếm 14,0% GDP và khu vực tài chính (bao gồm cả giao dịch bất động sản) chiếm gần gấp rưỡi.
Nhưng các nhà kinh tế học nghiêm túc đã nói khá chính xác rằng, các dịch vụ tài chính và thương mại không tạo ra bất kỳ sản phẩm thực tế nào; chúng chỉ phân phối lại một sản phẩm đã được tạo ra trong khu vực thực tế của nền kinh tế.
Rõ ràng là, có thể tăng giá trị GDP không chỉ bằng cách đầu tư vào sản xuất hàng hóa mới, mà còn bằng cách tăng nhiều loại “dịch vụ” khác nhau – tạo ra giá trị gia tăng.
Nhưng thực chất đây không phải là giá trị “thêm vào” mà là giá trị được “phân phối lại”.
Như vậy, có thể nói, “dịch vụ” chỉ làm tăng “bong bóng” của chỉ số GDP.
Mức độ thổi phồng bong bóng GDP rất khác nhau giữa các quốc gia.
Tất nhiên, Rosstat (Cơ quan thống kê Nga) cũng tạo ra bong bóng GDP, nhưng theo tôi, trong cuộc cạnh tranh này, Rosstat thua xa nhiều nước nằm trong top 10 nền kinh tế thế giới.
Như vậy, năm 2021, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Nga là 4,2%; công nghiệp (khai thác và sản xuất) – 31,9%; xây dựng – 5,1%.
Tổng cộng, khu vực thực tế chiếm tới 41,2% GDP. Với con số này, chúng tôi sẽ bổ sung thêm một phần dịch vụ khác có thể được phân loại là “quan trọng”. Đó là vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, khách sạn và dịch vụ ăn uống, kho bãi.
Con số đó tương ứng với 22,5% GDP. Cùng với khu vực thực, con số này là 63,7%.
Phần còn lại – 32,3%, bao gồm dịch vụ tài chính, giao dịch bất động sản, dịch vụ thương mại khác (dịch vụ kinh doanh), dịch vụ hành chính công, quốc phòng và dịch vụ xã hội.
Theo quan điểm của lý thuyết kinh tế, mà cho đến gần đây vẫn được trình bày trong sách giáo khoa, đây là những lĩnh vực hoạt động xã hội không tạo ra sản phẩm xã hội. Và theo những đổi mới tự do trong lý thuyết kinh tế, tiêu dùng đã chuyển thành sản xuất, ‘điểm trừ’ đã chuyển thành ‘điểm cộng’.
Nhưng ở các nước phương tây, vốn được trang bị lý thuyết kinh tế mới sớm hơn Nga, mức độ lạm phát của “bong bóng” GDP lớn hơn nhiều.
Chúng ta hãy nhìn vào nước Mỹ. Ở đó, nông nghiệp chiếm 1,0% GDP vào năm 2021; công nghiệp – 14,4%; xây dựng – 4,2%; dịch vụ quan trọng – 24,0%. Tổng cộng, khu vực thực của nền kinh tế chiếm 19,6% GDP.
Và khu vực thực tế ‘cộng với’ các dịch vụ quan trọng chiếm 43,6% GDP. Phần còn lại, tức là 56,4% GDP, có thể được gọi là “bọt”, làm tăng kết quả của hoạt động kinh tế một cách giả tạo.
Bây giờ hãy nhìn vào Đức, đối thủ gần nhất của Nga (theo đánh giá của Ngân hàng thế giới).
Năm 2021, nông nghiệp nước này tạo ra 0,9% GDP; công nghiệp – 24,0%; xây dựng – 5,5%. Tổng cộng, khu vực thực tế tạo ra 30,4% GDP. Khu vực thực tế, cùng với các dịch vụ quan trọng (20,9%), chiếm 51,3% GDP. Nhiều hơn Mỹ, nhưng ít hơn đáng kể so với Nga.
Bức tranh tương tự ở các nước phương tây khác. Như vậy, ở Anh, vào cuối năm 2021, khu vực thực của nền kinh tế chỉ tạo ra 20,3% GDP. 22,6% GDP khác là các dịch vụ quan trọng. Hóa ra “bọt” chiếm tới 57,1% GDP.
Nước Pháp thì sao. Khu vực thực của nền kinh tế chiếm 20,7% GDP và các dịch vụ quan trọng – 23,3% GDP. “Bọt” chiếm tới 56,0% GDP.
Các tính toán cho các quốc gia Tây Âu khác cũng đưa ra ước tính về “bọt” vượt quá một nửa GDP. Người giữ kỷ lục là Luxembourg. Khu vực thực tế của nó chỉ tạo ra 12,6% GDP. Dịch vụ quan trọng – 20,4% GDP. Như vậy, bọt chiếm hơn 2/3 GDP (67,0%).
Và đây là bức tranh về các nước phát triển khác. Tại Nhật Bản, “bọt” chiếm gần một nửa GDP – 46%. Canada có 48,9%. Úc có 50,6%.
Ở Nga, con số này hóa ra là 5,33 nghìn tỷ đô la. Bốn vị trí đầu tiên được giữ bởi Trung Quốc (30,3 nghìn tỷ USD), Mỹ (25,5 nghìn tỷ USD), Ấn Độ (11,8 nghìn tỷ USD) và Nhật Bản (5,7 nghìn tỷ USD).
Và đối với Đức, con số này hóa ra là 5,31 nghìn tỷ USD. Nhiều nhà kinh tế đã nhận xét đúng về số liệu của Ngân hàng thế giới: Sự khác biệt giữa GDP của Đức và Nga “nằm trong giới hạn sai số thống kê”.
Tất nhiên, không có gì đảm bảo rằng Nga sẽ có thể duy trì vị trí thứ 5 danh dự mà Ngân hàng thế giới trao cho nước này vào năm 2023.
Và mặc dù Đức, quốc gia ‘láng giềng’ với Nga trong bảng xếp hạng các nền kinh tế thế giới, đang hoạt động rất kém, nhưng nước này vẫn có thể lấy lại vị trí thứ 5 đã mất, đẩy Nga trở lại vị trí thứ 6 trước đó.
Thực tế là, thứ hạng của các quốc gia không chỉ phụ thuộc vào thành công thực sự của họ trong việc sản xuất nhiều loại hàng hóa khác nhau, mà còn phụ thuộc vào sức mua của đồng tiền quốc gia.
Vào năm 2023, chúng ta thấy tỷ giá đồng Rúp/đô la giảm mạnh, từ đó dẫn đến giá đồng Rúp trên thị trường trong nước tăng.
Ví dụ, tỷ lệ khối lượng sản xuất thực tế ở Đức và Nga có thể giữ nguyên, nhưng sức mua tiền tệ của từng quốc gia (PPP) – tương ứng là đồng Euro và đồng Rúp – có thể thay đổi.
Nhưng những so sánh quốc tế như vậy rất đáng nghi ngờ vì một lý do khác. Chỉ số GDP được tính bằng đơn vị tiền tệ quốc gia, đã đặt ra, những câu hỏi và nghi ngờ.
2. GDP là chỉ tiêu đánh giá sai lệch nghiêm trọng
GDP là một chỉ số kinh tế vĩ mô phản ánh ‘giá trị thị trường’ của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (nghĩa là dành cho tiêu dùng, sử dụng hoặc ứng dụng trực tiếp) được sản xuất trong năm – trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế trên lãnh thổ của một quốc gia, trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 1 quý hay 1 năm. Cụ thể GDP được dùng cho tiêu dùng, xuất khẩu và đầu tư [bên ngoài tùy thuộc vào quốc tịch của các yếu tố sản xuất được sử dụng (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn)].
Khái niệm này lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1934 bởi nhà kinh tế học người Mỹ Simon Kuznets.
Trước Simon Kuznets, chỉ số chung nhất là thu nhập quốc dân (tổng thu nhập được tạo ra nhờ việc sử dụng các nguồn lực quốc gia cả trong và ngoài nước).
Cho đến đầu những năm 70 của thế kỷ 20, nhiều quốc gia sử dụng chỉ số tổng sản phẩm quốc dân (GNP), hơn là GDP.
Không giống như GDP – phản ánh tổng giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên lãnh thổ của một quốc gia, GNP phản ánh tổng giá trị hàng hóa chỉ được tạo ra bởi cư dân của quốc gia đó, bất kể ‘vị trí địa lý’ của họ.
Quá trình chuyển đổi sang chỉ số GDP trên thế giới diễn ra đúng 30 năm trước. Theo khuyến nghị của Liên Hợp Quốc về tính toán hệ thống tài khoản quốc gia năm 1993, chỉ số GNP đã được thay thế bằng chỉ số GDP.
Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi sang chỉ số GDP cũng là do Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ‘nền kinh tế lớn cuối cùng’, cũng chuyển sang chỉ số GDP từ năm 1993.
GDP là một chỉ số kinh tế vĩ mô phản ánh ‘giá trị thị trường’ của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (nghĩa là dành cho tiêu dùng, sử dụng hoặc ứng dụng trực tiếp) được sản xuất trong năm – trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế trên lãnh thổ của một quốc gia, trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 1 quý hay 1 năm. Cụ thể GDP được dùng cho tiêu dùng, xuất khẩu và đầu tư [bên ngoài tùy thuộc vào quốc tịch của các yếu tố sản xuất được sử dụng (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn)].
Khái niệm này lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1934 bởi nhà kinh tế học người Mỹ Simon Kuznets.
Trước Simon Kuznets, chỉ số chung nhất là thu nhập quốc dân (tổng thu nhập được tạo ra nhờ việc sử dụng các nguồn lực quốc gia cả trong và ngoài nước).
Cho đến đầu những năm 70 của thế kỷ 20, nhiều quốc gia sử dụng chỉ số tổng sản phẩm quốc dân (GNP), hơn là GDP.
Không giống như GDP – phản ánh tổng giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên lãnh thổ của một quốc gia, GNP phản ánh tổng giá trị hàng hóa chỉ được tạo ra bởi cư dân của quốc gia đó, bất kể ‘vị trí địa lý’ của họ.
Quá trình chuyển đổi sang chỉ số GDP trên thế giới diễn ra đúng 30 năm trước. Theo khuyến nghị của Liên Hợp Quốc về tính toán hệ thống tài khoản quốc gia năm 1993, chỉ số GNP đã được thay thế bằng chỉ số GDP.
Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi sang chỉ số GDP cũng là do Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ‘nền kinh tế lớn cuối cùng’, cũng chuyển sang chỉ số GDP từ năm 1993.
3. Vấn đề của chỉ số GDP
Một xu hướng gần như phổ biến ở tất cả các nước là tỷ trọng của các ngành công nghiệp, trong các ngành của nền kinh tế (nông nghiệp, khai thác mỏ và sản xuất, xây dựng và một số ngành khác) trong GDP đều giảm dần, trong khi tỷ trọng của khu vực dịch vụ lại tăng lên.
Tất nhiên, trong lĩnh vực dịch vụ, có những dịch vụ quan trọng đối với cả các doanh nghiệp và cá nhân.
Đó là các dịch vụ vận tải, thông tin liên lạc, thương mại bán lẻ, tiện ích công cộng, … Nhưng đồng thời, ở nhiều quốc gia, các lĩnh vực dịch vụ đang phát triển với tốc độ chóng mặt, nói một cách nhẹ nhàng thì không thể gọi là “quan trọng”.
Chúng thường được gọi là “nghi ngờ” hoặc “không hiệu quả”.
Ví dụ, chúng ta có thể trích dẫn dữ liệu từ Hoa Kỳ. Ở đó, năm 1992, nông nghiệp chiếm 1,6% GDP; sản xuất chiếm 15,7%.
Vào cuối năm 2022, tỷ trọng của các lĩnh vực này trong GDP của Mỹ lần lượt giảm xuống còn 1,1% và 11,0%.
Lưu ý là, tỷ trọng của khu vực dịch vụ tài chính và bất động sản năm 1992 là 18,6% và năm 2022 tăng lên 20,2%.
Năm 2022, khu vực thực tế của nền kinh tế, bao gồm các ngành khai thác và sản xuất, cũng như nông lâm nghiệp, chiếm 14,0% GDP và khu vực tài chính (bao gồm cả giao dịch bất động sản) chiếm gần gấp rưỡi.
Nhưng các nhà kinh tế học nghiêm túc đã nói khá chính xác rằng, các dịch vụ tài chính và thương mại không tạo ra bất kỳ sản phẩm thực tế nào, chúng chỉ phân phối lại một sản phẩm đã được tạo ra trong khu vực thực tế của nền kinh tế.
Vào cuối năm 2022, tỷ trọng của các lĩnh vực này trong GDP của Mỹ lần lượt giảm xuống còn 1,1% và 11,0%.
Nhưng tỷ trọng của khu vực dịch vụ tài chính và bất động sản năm 1992 là 18,6% và năm 2022 tăng lên 20,2%.
Năm 2022, khu vực thực tế của nền kinh tế, bao gồm các ngành khai thác và sản xuất, cũng như nông lâm nghiệp, chiếm 14,0% GDP và khu vực tài chính (bao gồm cả giao dịch bất động sản) chiếm gần gấp rưỡi.
Nhưng các nhà kinh tế học nghiêm túc đã nói khá chính xác rằng, các dịch vụ tài chính và thương mại không tạo ra bất kỳ sản phẩm thực tế nào; chúng chỉ phân phối lại một sản phẩm đã được tạo ra trong khu vực thực tế của nền kinh tế.
Rõ ràng là, có thể tăng giá trị GDP không chỉ bằng cách đầu tư vào sản xuất hàng hóa mới, mà còn bằng cách tăng nhiều loại “dịch vụ” khác nhau – tạo ra giá trị gia tăng.
Nhưng thực chất đây không phải là giá trị “thêm vào” mà là giá trị được “phân phối lại”.
Như vậy, có thể nói, “dịch vụ” chỉ làm tăng “bong bóng” của chỉ số GDP.
Mức độ thổi phồng bong bóng GDP rất khác nhau giữa các quốc gia.
Tất nhiên, Rosstat (Cơ quan thống kê Nga) cũng tạo ra bong bóng GDP, nhưng theo tôi, trong cuộc cạnh tranh này, Rosstat thua xa nhiều nước nằm trong top 10 nền kinh tế thế giới.
Như vậy, năm 2021, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Nga là 4,2%; công nghiệp (khai thác và sản xuất) – 31,9%; xây dựng – 5,1%.
Tổng cộng, khu vực thực tế chiếm tới 41,2% GDP. Với con số này, chúng tôi sẽ bổ sung thêm một phần dịch vụ khác có thể được phân loại là “quan trọng”. Đó là vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, khách sạn và dịch vụ ăn uống, kho bãi.
Con số đó tương ứng với 22,5% GDP. Cùng với khu vực thực, con số này là 63,7%.
Phần còn lại – 32,3%, bao gồm dịch vụ tài chính, giao dịch bất động sản, dịch vụ thương mại khác (dịch vụ kinh doanh), dịch vụ hành chính công, quốc phòng và dịch vụ xã hội.
Theo quan điểm của lý thuyết kinh tế, mà cho đến gần đây vẫn được trình bày trong sách giáo khoa, đây là những lĩnh vực hoạt động xã hội không tạo ra sản phẩm xã hội. Và theo những đổi mới tự do trong lý thuyết kinh tế, tiêu dùng đã chuyển thành sản xuất, ‘điểm trừ’ đã chuyển thành ‘điểm cộng’.
Nhưng ở các nước phương tây, vốn được trang bị lý thuyết kinh tế mới sớm hơn Nga, mức độ lạm phát của “bong bóng” GDP lớn hơn nhiều.
Chúng ta hãy nhìn vào nước Mỹ. Ở đó, nông nghiệp chiếm 1,0% GDP vào năm 2021; công nghiệp – 14,4%; xây dựng – 4,2%; dịch vụ quan trọng – 24,0%. Tổng cộng, khu vực thực của nền kinh tế chiếm 19,6% GDP.
Và khu vực thực tế ‘cộng với’ các dịch vụ quan trọng chiếm 43,6% GDP. Phần còn lại, tức là 56,4% GDP, có thể được gọi là “bọt”, làm tăng kết quả của hoạt động kinh tế một cách giả tạo.
Bây giờ hãy nhìn vào Đức, đối thủ gần nhất của Nga (theo đánh giá của Ngân hàng thế giới).
Năm 2021, nông nghiệp nước này tạo ra 0,9% GDP; công nghiệp – 24,0%; xây dựng – 5,5%. Tổng cộng, khu vực thực tế tạo ra 30,4% GDP. Khu vực thực tế, cùng với các dịch vụ quan trọng (20,9%), chiếm 51,3% GDP. Nhiều hơn Mỹ, nhưng ít hơn đáng kể so với Nga.
Bức tranh tương tự ở các nước phương tây khác. Như vậy, ở Anh, vào cuối năm 2021, khu vực thực của nền kinh tế chỉ tạo ra 20,3% GDP. 22,6% GDP khác là các dịch vụ quan trọng. Hóa ra “bọt” chiếm tới 57,1% GDP.
Nước Pháp thì sao. Khu vực thực của nền kinh tế chiếm 20,7% GDP và các dịch vụ quan trọng – 23,3% GDP. “Bọt” chiếm tới 56,0% GDP.
Các tính toán cho các quốc gia Tây Âu khác cũng đưa ra ước tính về “bọt” vượt quá một nửa GDP. Người giữ kỷ lục là Luxembourg. Khu vực thực tế của nó chỉ tạo ra 12,6% GDP. Dịch vụ quan trọng – 20,4% GDP. Như vậy, bọt chiếm hơn 2/3 GDP (67,0%).
Và đây là bức tranh về các nước phát triển khác. Tại Nhật Bản, “bọt” chiếm gần một nửa GDP – 46%. Canada có 48,9%. Úc có 50,6%.
4. Tất cả nói lên điều gì?
Hơn nữa, việc so sánh quy mô của các nền kinh tế bằng cách sử dụng chỉ số GDP được chấp nhận rộng rãi, ngay cả khi nó được đo bằng sức mua tương đương của các loại tiền tệ, là một việc làm khá mơ hồ.
Để so sánh khách quan hơn, giữa các nền kinh tế, chúng ta chỉ nên lấy phần GDP được tạo ra bởi khu vực thực của nền kinh tế.
Hoặc, như một lựa chọn: Một phần GDP trừ đi phần “bọt” (tức là khu vực thực của nền kinh tế cộng với các dịch vụ quan trọng).
Với cách tiếp cận này, không còn nghi ngờ gì nữa, Nga thậm chí không phải là nền kinh tế thứ 5 mà là nền kinh tế thứ 4 trên thế giới, trước không chỉ Đức mà còn cả Nhật Bản.
Nga nên dựa vào phương pháp tính toán tổng sản phẩm và so sánh quốc tế của riêng mình, đồng thời không sử dụng những ước tính đáng ngờ từ Ngân hàng thế giới và các tổ chức quốc tế khác chịu ảnh hưởng của phương tây.
Hơn nữa, việc so sánh quy mô của các nền kinh tế bằng cách sử dụng chỉ số GDP được chấp nhận rộng rãi, ngay cả khi nó được đo bằng sức mua tương đương của các loại tiền tệ, là một việc làm khá mơ hồ.
Để so sánh khách quan hơn, giữa các nền kinh tế, chúng ta chỉ nên lấy phần GDP được tạo ra bởi khu vực thực của nền kinh tế.
Hoặc, như một lựa chọn: Một phần GDP trừ đi phần “bọt” (tức là khu vực thực của nền kinh tế cộng với các dịch vụ quan trọng).
Với cách tiếp cận này, không còn nghi ngờ gì nữa, Nga thậm chí không phải là nền kinh tế thứ 5 mà là nền kinh tế thứ 4 trên thế giới, trước không chỉ Đức mà còn cả Nhật Bản.
Nga nên dựa vào phương pháp tính toán tổng sản phẩm và so sánh quốc tế của riêng mình, đồng thời không sử dụng những ước tính đáng ngờ từ Ngân hàng thế giới và các tổ chức quốc tế khác chịu ảnh hưởng của phương tây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét