Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái (P.7)
Tác giả: Đặng Hoàng XaNhững cuộc tàn sát người Do Thái năm 1881 làm vỡ nát giấc mơ hòa nhập và khiến Pinsker cho ra đời ngay cuốn sách Auto-emancipation (Tự-Giải Phóng): “Đối với những người đang sống, người Do Thái là người chết; đối với người bản địa, người Do Thái là người ngoài hành tinh và vô gia cư; đối với người yêu nước, người Do Thái là kẻ không tổ quốc; và đối với mọi tầng lớp, họ là những kẻ đáng ghét.” Pinsker kết luận, người Do Thái chỉ có thể được kính trọng khi họ tự giải phóng mình.
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái
Khi nói về hành trình 4.000 năm của người Do Thái, chúng ta không thể không nhắc đến Chủ nghĩa Zion (Zionism), điểm sáng cuối cùng đã làm nên bước ngoặt của lịch sử Do Thái mà trên đó ý tưởng về Nhà nước Do Thái ngày nay đã nẩy mầm, lớn lên và kết thành cây trái ngay trên mảnh đất cổ xưa Canaan thấm đẫm máu và nước mắt.
Ngay trong Thời Kỳ Thánh Kinh [3000 TCN – 538 TCN] và cho đến thời điểm quốc gia Israel cổ đại bị người La Mã hủy diệt vào năm 70 CN, người Do Thái đã sinh hoạt như một quốc gia, được cho là đầu tiên trong lịch sử. Sau đó, suốt trong hơn mười chín thế kỷ, người Do Thái lưu vong, trên những vùng đất mà họ cư ngụ, đã hình thành nên một dân tộc tách biệt với những tổ chức quản lý phi-nhà nước theo cung cách riêng của mình, với ngôn ngữ duy nhất, phong tục độc đáo, những ý tưởng khác lạ, và một nền văn hóa rất khác biệt, chưa kể đến những thứ như trang phục quần áo và nghệ thuật.
Những từ như ‘Hebrew’ và ‘Israeli’, sử dụng phổ biến hơn từ ‘Jews’ – ngay trong thời hiện đại – đã phản ánh rằng bản sắc dân tộc và con người Israel, đã tự mở rộng vượt ra ngoài phạm vi của tôn giáo. Như thế, tôn giáo chỉ là một dấu hiệu trong bản sắc người Do Thái, và thực tế đã chứng minh rằng bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người Do Thái luôn tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào khác trên trái đất.
Tất cả người Do Thái Diaspora, ngay cả những người nghèo và ít học sống ở những nơi làng quê cô lập nhất, vẫn ý thức được nguồn gốc của họ tại Vùng đất Israel trong Thánh Kinh; nhiều người vẫn duy trì quan hệ với cộng đồng rất nhỏ người Do Thái đang còn sống ở đó và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Là một trong những ý tưởng cố gắng tìm câu trả lời cho khao khát của người Do Thái về một mảnh đất của riêng mình, Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism – Chủ nghĩa Zion) đã ghép những ý tưởng dân tộc chủ nghĩa hiện đại vào kết nối cổ xưa của người Do Thái với Vùng đất Israel. Tên gọi ‘Zionism’ lấy theo tên ngọn núi Zion tiếp giáp với Thành Cổ Jerusalem. Theo cách hiểu đơn giản nhất, Zionism thừa nhận sự gắn liền của dân tộc Do Thái với Vùng đất Israel bao gồm Israel ngày nay và Bờ Tây của sông Jordan. Một số người định ra ranh giới khác biệt giữa Zionism tinh thần – cái đã giúp củng cố đức tin tôn giáo của người Do Thái từ thời lưu vong Babylon – và Zionism chính trị – là ý tưởng phục quốc đã kết tinh tại châu Âu trong những năm cuối thế kỷ 19.
Chủ nghĩa Zion đã cập nhật tất cả những ý tưởng hiện có trên tinh thần tự giác và chủ nghĩa dân tộc đương đại. Nó đề xuất câu trả lời cho ‘câu hỏi Do Thái’, rằng làm thế nào để người Do Thái, bao gồm cả những người có cuộc sống không bị bao bọc bởi giới luật tôn giáo, đáp ứng những thách thức và cơ hội của thế giới hiện đại? Câu trả lời là không phải sự đồng hóa với cộng đồng bản địa xung quanh, cũng không phải là sự tồn tại thuần túy tôn giáo có thể đáp ứng những thách thức của thế giới hiện đại, mà chính là sự tồn tại của quốc gia: đó là sự cần thiết tạo ra một nhà nước Do Thái ngay trên quê hương lịch sử. Các nhà Zionist cũng lập luận rằng việc thay thế sự kiên nhẫn của lòng tin bằng hành động của con người sẽ bảo tồn cuộc sống của chính những người Do Thái và sự phát triển cho tôn giáo của họ.
Israel hiện đại không phải là một tác phẩm tùy ý hoặc ngẫu nhiên – nó không chỉ đơn thuần là kết quả của những thảm họa, ví dụ như Holocaust. Thay vào đó, nó là sự tiếp nối của một quá trình lịch sử lâu dài. Sự ra đời của Nhà nước Israel là không thể tránh khỏi và chỉ là một logic hợp lý cũng như bất kỳ nhà nước nào trên thế giới hiện nay, được tạo ra bởi một cộng đồng của những người có chung một thế giới quan, lịch sử, và ước muốn được chia sẻ số phận của mình.
Sự tồn tại của những cảm tình đối với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong xã hội, tôn giáo và thế giới quan Do Thái có lẽ sẽ không đi tới đâu nếu không có một phong trào có tổ chức. Những nhà tư tưởng tiên phong giữa thế kỷ 19 – Moses Hess [1812-1875], Leon Pinsker [1821-1891], và những người khác – đã cung cấp cái nhìn thoáng qua về ý tưởng lãng mạng của một nhà nước Do Thái, nhưng Theodor Herzl [1860-1904] và Ben-Gurion [1886-1973] mới là những nhà cách mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm Vùng đất Israel.
Vào thế kỷ 18, ở Tây Âu, người Do Thái đã có lúc tưởng rằng họ được chấp nhận vào xã hội Tây Âu hiện đại như những người bình đẳng. Tuy thế cảm giác bài Do Thái vẫn còn nằm sâu dưới bề mặt của châu Âu Ki-tô giáo. Sự thù nghịch vẫn tồn tại và rất nhiều người Do Thái tin rằng cho dù các quốc gia châu Âu tự do như thế nào đi chăng nữa, dân tộc Do Thái sẽ không bao giờ được đối xử bình đẳng cho đến khi họ có một quốc gia của riêng mình.
Năm 1862, triết gia Do Thái tại Đức là Moses Hess [1812-1875] xuất bản cuốn sách có tựa đề Rome and Jerusalem (Thành Rome và Jerusalem) trong đó tuyên bố rõ rằng tình cảm quốc gia của người Do Thái là không thể dập tắt được và chỉ có thể hiện thực hóa bằng cách quay trở về Palestine. Nếu cần thiết người Do Thái sẵn sàng hy sinh sự tự do trong hoàn cảnh lưu vong cho sự nghiệp này.
Ít người nhận thức được cảm nghĩ của Hess trong cuốn sách cho đến khi hai người đàn ông từ Odessa (Nga), Leon Pinsker [1821-1891] và Ahad Ha-Am [1856-1927], làm sống lại những ý tưởng của nó. Thành phố cảng Odessa bên biển Hắc Hải (Black Sea) có một phần ba dân số là Do Thái và là nơi ở của 150.000 người Do Thái thế tục có học hành và đang cố gắng hòa đồng vào xã hội Nga lúc bấy giờ. Tuy nhiên những cuộc tàn sát năm 1881 làm vỡ nát giấc mơ hòa nhập và khiến Pinsker cho ra đời ngay cuốn sách Auto-emancipation (Tự-Giải Phóng): “Đối với những người đang sống, người Do Thái là người chết; đối với người bản địa, người Do Thái là người ngoài hành tinh và vô gia cư; đối với người yêu nước, người Do Thái là kẻ không tổ quốc; và đối với mọi tầng lớp, họ là những kẻ đáng ghét.” Pinsker kết luận, người Do Thái chỉ có thể được kính trọng khi họ tự giải phóng mình.
Pinsker dẫn đầu tổ chức Hovevei Tzion (Những người yêu Zion) là tổ chức đã thành lập khu định cư Zion đầu tiên tại Palestine năm 1882. Năm 1890 Hovevei đã sáng lập Odessa Committee (Ủy ban Odessa) với dự định nhằm giúp phát triển nông nghiệp tại Palestine, nhưng thiếu định hướng chính trị. Cuối cùng thì chính Theodor Herzl là người đã hoàn thành dự định đó.
Theodor Herzl, một nhà báo người Do Thái ở Hungary đã khởi xướng Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hay còn gọi là Chủ nghĩa Zion trong nỗ lực chống lại ách áp bức và ngược đãi người Do Thái và tìm ra bất cứ mảnh đất nào trên thế giới để người Do Thái có thể sống yên ổn và thành lập quốc gia của riêng họ.
Ngay trong Thời Kỳ Thánh Kinh [3000 TCN – 538 TCN] và cho đến thời điểm quốc gia Israel cổ đại bị người La Mã hủy diệt vào năm 70 CN, người Do Thái đã sinh hoạt như một quốc gia, được cho là đầu tiên trong lịch sử. Sau đó, suốt trong hơn mười chín thế kỷ, người Do Thái lưu vong, trên những vùng đất mà họ cư ngụ, đã hình thành nên một dân tộc tách biệt với những tổ chức quản lý phi-nhà nước theo cung cách riêng của mình, với ngôn ngữ duy nhất, phong tục độc đáo, những ý tưởng khác lạ, và một nền văn hóa rất khác biệt, chưa kể đến những thứ như trang phục quần áo và nghệ thuật.
Những từ như ‘Hebrew’ và ‘Israeli’, sử dụng phổ biến hơn từ ‘Jews’ – ngay trong thời hiện đại – đã phản ánh rằng bản sắc dân tộc và con người Israel, đã tự mở rộng vượt ra ngoài phạm vi của tôn giáo. Như thế, tôn giáo chỉ là một dấu hiệu trong bản sắc người Do Thái, và thực tế đã chứng minh rằng bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người Do Thái luôn tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào khác trên trái đất.
Tất cả người Do Thái Diaspora, ngay cả những người nghèo và ít học sống ở những nơi làng quê cô lập nhất, vẫn ý thức được nguồn gốc của họ tại Vùng đất Israel trong Thánh Kinh; nhiều người vẫn duy trì quan hệ với cộng đồng rất nhỏ người Do Thái đang còn sống ở đó và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Là một trong những ý tưởng cố gắng tìm câu trả lời cho khao khát của người Do Thái về một mảnh đất của riêng mình, Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism – Chủ nghĩa Zion) đã ghép những ý tưởng dân tộc chủ nghĩa hiện đại vào kết nối cổ xưa của người Do Thái với Vùng đất Israel. Tên gọi ‘Zionism’ lấy theo tên ngọn núi Zion tiếp giáp với Thành Cổ Jerusalem. Theo cách hiểu đơn giản nhất, Zionism thừa nhận sự gắn liền của dân tộc Do Thái với Vùng đất Israel bao gồm Israel ngày nay và Bờ Tây của sông Jordan. Một số người định ra ranh giới khác biệt giữa Zionism tinh thần – cái đã giúp củng cố đức tin tôn giáo của người Do Thái từ thời lưu vong Babylon – và Zionism chính trị – là ý tưởng phục quốc đã kết tinh tại châu Âu trong những năm cuối thế kỷ 19.
Chủ nghĩa Zion đã cập nhật tất cả những ý tưởng hiện có trên tinh thần tự giác và chủ nghĩa dân tộc đương đại. Nó đề xuất câu trả lời cho ‘câu hỏi Do Thái’, rằng làm thế nào để người Do Thái, bao gồm cả những người có cuộc sống không bị bao bọc bởi giới luật tôn giáo, đáp ứng những thách thức và cơ hội của thế giới hiện đại? Câu trả lời là không phải sự đồng hóa với cộng đồng bản địa xung quanh, cũng không phải là sự tồn tại thuần túy tôn giáo có thể đáp ứng những thách thức của thế giới hiện đại, mà chính là sự tồn tại của quốc gia: đó là sự cần thiết tạo ra một nhà nước Do Thái ngay trên quê hương lịch sử. Các nhà Zionist cũng lập luận rằng việc thay thế sự kiên nhẫn của lòng tin bằng hành động của con người sẽ bảo tồn cuộc sống của chính những người Do Thái và sự phát triển cho tôn giáo của họ.
Israel hiện đại không phải là một tác phẩm tùy ý hoặc ngẫu nhiên – nó không chỉ đơn thuần là kết quả của những thảm họa, ví dụ như Holocaust. Thay vào đó, nó là sự tiếp nối của một quá trình lịch sử lâu dài. Sự ra đời của Nhà nước Israel là không thể tránh khỏi và chỉ là một logic hợp lý cũng như bất kỳ nhà nước nào trên thế giới hiện nay, được tạo ra bởi một cộng đồng của những người có chung một thế giới quan, lịch sử, và ước muốn được chia sẻ số phận của mình.
Sự tồn tại của những cảm tình đối với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong xã hội, tôn giáo và thế giới quan Do Thái có lẽ sẽ không đi tới đâu nếu không có một phong trào có tổ chức. Những nhà tư tưởng tiên phong giữa thế kỷ 19 – Moses Hess [1812-1875], Leon Pinsker [1821-1891], và những người khác – đã cung cấp cái nhìn thoáng qua về ý tưởng lãng mạng của một nhà nước Do Thái, nhưng Theodor Herzl [1860-1904] và Ben-Gurion [1886-1973] mới là những nhà cách mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm Vùng đất Israel.
Vào thế kỷ 18, ở Tây Âu, người Do Thái đã có lúc tưởng rằng họ được chấp nhận vào xã hội Tây Âu hiện đại như những người bình đẳng. Tuy thế cảm giác bài Do Thái vẫn còn nằm sâu dưới bề mặt của châu Âu Ki-tô giáo. Sự thù nghịch vẫn tồn tại và rất nhiều người Do Thái tin rằng cho dù các quốc gia châu Âu tự do như thế nào đi chăng nữa, dân tộc Do Thái sẽ không bao giờ được đối xử bình đẳng cho đến khi họ có một quốc gia của riêng mình.
Năm 1862, triết gia Do Thái tại Đức là Moses Hess [1812-1875] xuất bản cuốn sách có tựa đề Rome and Jerusalem (Thành Rome và Jerusalem) trong đó tuyên bố rõ rằng tình cảm quốc gia của người Do Thái là không thể dập tắt được và chỉ có thể hiện thực hóa bằng cách quay trở về Palestine. Nếu cần thiết người Do Thái sẵn sàng hy sinh sự tự do trong hoàn cảnh lưu vong cho sự nghiệp này.
Ít người nhận thức được cảm nghĩ của Hess trong cuốn sách cho đến khi hai người đàn ông từ Odessa (Nga), Leon Pinsker [1821-1891] và Ahad Ha-Am [1856-1927], làm sống lại những ý tưởng của nó. Thành phố cảng Odessa bên biển Hắc Hải (Black Sea) có một phần ba dân số là Do Thái và là nơi ở của 150.000 người Do Thái thế tục có học hành và đang cố gắng hòa đồng vào xã hội Nga lúc bấy giờ. Tuy nhiên những cuộc tàn sát năm 1881 làm vỡ nát giấc mơ hòa nhập và khiến Pinsker cho ra đời ngay cuốn sách Auto-emancipation (Tự-Giải Phóng): “Đối với những người đang sống, người Do Thái là người chết; đối với người bản địa, người Do Thái là người ngoài hành tinh và vô gia cư; đối với người yêu nước, người Do Thái là kẻ không tổ quốc; và đối với mọi tầng lớp, họ là những kẻ đáng ghét.” Pinsker kết luận, người Do Thái chỉ có thể được kính trọng khi họ tự giải phóng mình.
Pinsker dẫn đầu tổ chức Hovevei Tzion (Những người yêu Zion) là tổ chức đã thành lập khu định cư Zion đầu tiên tại Palestine năm 1882. Năm 1890 Hovevei đã sáng lập Odessa Committee (Ủy ban Odessa) với dự định nhằm giúp phát triển nông nghiệp tại Palestine, nhưng thiếu định hướng chính trị. Cuối cùng thì chính Theodor Herzl là người đã hoàn thành dự định đó.
Theodor Herzl, một nhà báo người Do Thái ở Hungary đã khởi xướng Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hay còn gọi là Chủ nghĩa Zion trong nỗ lực chống lại ách áp bức và ngược đãi người Do Thái và tìm ra bất cứ mảnh đất nào trên thế giới để người Do Thái có thể sống yên ổn và thành lập quốc gia của riêng họ.
Tuy thế, trong thâm tâm, người Do Thái luôn biết rằng không đâu bằng đất tổ Palestine mà họ đã bỏ ra đi hơn hai ngàn năm trước. Vì thế Chủ nghĩa Zion kêu gọi việc thành lập một nhà nước quốc gia của người Do Thái ngay tại Palestine dùng làm nơi trú ẩn cho những người Do Thái trên thế giới và ở đó họ sẽ có quyền tự quyết. Các thành viên Zion ngày càng tin rằng nhà nước này phải ở ngay quê hương lịch sử của họ, mà họ gọi là Vùng đất Israel.
Tiếp theo Theodor Herzl, một Zionist khác, David Ben-Gurion, người mà sau này trở thành vị thủ tướng đầu tiên của nhà nước Israel vào năm 1948, đã tiếp nối và trở thành người lãnh đạo của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Với lòng khao khát vô bờ bến cho sự nghiệp phục quốc của người Do Thái, David Ben-Gurion đã đấu tranh không ngừng nghỉ và sau này được vinh danh là ‘người cha sáng lập ra tổ quốc Israel’. Nếu Theodor Herzl có thể khái quát hóa tầm nhìn cho chủ quyền của người Do Thái và kích thích cộng đồng Do Thái tha hương bằng khái niệm lãng mạn về một nhà nước chủ quyền, thì Ben-Gurion mới chính là người đưa tầm nhìn này từ một ý tưởng để trở thành một nhà nước thực sự có năng lực vận hành.
Thành lập nhà nước Israel năm 1948
Chủ nghĩa Zion hiện đại đã đặt viên gạch đầu tiên cho ý tưởng về một quê hương đất nước của người Do Thái với tên gọi Vùng đất Israel trên mảnh đất Palestine. Kể từ khi người Do Thái lưu vong gần 2.000 năm, Vùng đất Israel vẫn luôn là tâm điểm trong ý thức của người Do Thái.
Thực tế thì ngay từ đầu những năm 1900, người Do Thái đã bắt đầu mua đất và phát triển những vùng định cư ở Palestine. Vào năm 1909, thành phố Tel Avil của người Do Thái đã được thành lập, và vào năm 1920, khoảng 50.000 người Do Thái đã di cư trở về Palestine. Đến năm 1933 dân số Do Thái ở Palestine đã lên tới 220.000 người.
Tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua một kế hoạch phân chia vùng Palestine, sau khi chế độ ủy trị của Anh chấm dứt trên mảnh đất này, thành hai nhà nước Ả Rập Palestine và Do Thái. Tháng Năm năm 1948, người Do Thái ở Palestine tuyên bố thành lập Nhà nước Israel độc lập. Vào năm này, dân số của Israel chỉ vẻn vẹn có 700 ngàn người. Sau năm 1948, với chính sách hỗ trợ và khuyến khích của Nhà nước Israel, dòng chẩy những người Do Thái nhập cư từ khắp các miền đất trên thế giới vào Israel tăng lên cuồn cuộn: năm 1949 là 239.576 người; năm 1950 là 170.249 người; năm 1951 là 175.095 người. Trong giai đoạn 1990-1999, sau sự sụp đổ của Liên Xô, gần một triệu người Do Thái quay trở về Israel, phần lớn là khoa học gia, kỹ sư, chuyên viên học thức cao. Diện mạo của đất nước Israel thay đổi không ngừng. Hiện nay 9 trong 10 người Israel là dân nhập cư hoặc là con cháu thế hệ thứ nhất hay thứ hai của dân nhập cư. Israel giờ là nơi sống của những người có 70 quốc tịch gốc và các nền văn hóa khác nhau.
Về phần nhà nước Ả Rập Palestine, do xung đột kéo dài, phải đến tháng Năm năm 1994, sau Hiệp định Oslo, Chính quyền Palestine (tự trị) đứng đầu là Yasser Arafat mới được thành lập trên hai vùng đất tách biệt: Bờ Tây và Dải Gaza. Hai bộ phận này của lãnh thổ Palestine trên thực tế là hai vùng đất cách nhau khoảng 45 km. Bờ Tây nằm giữa Jerusalem – từ lâu đã được tuyên bố là thủ đô của cả Palestine và Israel – và Jordan về phía Đông. Dải Gaza là một dải đất nhỏ dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía Tây của Israel.
Văn hào Mark Twain [1835-1910] khi ghé thăm Palestine vào năm 1867, đã mô tả nó là: “… Một đất nước hoang vắng phủ đầy cỏ dại đến thê lương trong im lặng…. Chúng tôi không thấy một bóng người trên đường đi …. hầu như không một cây xanh hoặc một bụi cây ở bất cứ đâu. Ngay cả ô liu và xương rồng, những bạn bè gần gũi của khô cằn, đã gần như rời bỏ đất nước này…“. Nếu ông còn sống và quay trở lại Israel vào lúc này, ông sẽ phải sững sờ mà chứng kiến rằng một màu xanh của cây trồng và rau quả đã che phủ hầu hết các vùng đồi núi xa mạc hoang vu ngày xưa, các thành thị đang mọc lên, và sau hết, cuộc sống nơi đây đang nảy mầm.
Phụ lục: Các cột mốc thời gian
3760 TCN : Bắt đầu lịch Do Thái.
1812 TCN : Ngày sinh theo truyền thống của Abraham.
~1700 TCN : Jacob lãnh đạo người Do Thái di cư đến Ai Cập.
1300 TCN : Moses dẫn người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập về Miền Đất Hứa (Exodus). Trên đường đi, Moses nhận Mười Điều Răn của Thiên Chúa tại núi Sinai, Ai Cập.
1175 TCN : Người Philistines xuất hiện ở Canaan.
1200-400 TCN : Giai đoạn Kinh Torah được biên soạn.
1000-586 TCN : Thời gian áng chừng của các vương quốc Israel theo Kinh Thánh.
1043-1010 TCN : Người Do Thái thành lập vương quốc Israel, trị vì bởi Saul.
1002-970 TCN : David trị vì Israel, lấy Jerusalem làm thủ đô.
970-931 TCN : Solomon nối ngôi David và bắt đầu qui hoạch xây dựng lại Jerusalem.
922 TCN : Vương quốc Israel bị chia thành Israel ở phương Bắc và Judah ở phương Nam. Jerusalem trở thành thủ đô của Judah.
825 TCN : Ngôi Đền Jerusalem được hoàn thành.
720 TCN : Người Assyria xâm lược Israel và trục xuất 10 bộ tộc người Do Thái.
625 TCN : Đế quốc Assyria bị liên minh của Đế quốc Babylon và Median tiêu diệt.
586 TCN : Vua Nebuchadrezzar II của Babylon phá hủy Ngôi Đền của Solomon và bắt dân Do Thái về Babylon làm nô lệ. Kết thúc thời kỳ Ngôi Đền thứ Nhất [825 TCN – 586 TCN].
538 TCN : Đại đế Cyrus của Ba Tư tiêu diệt Đế quốc Babylon và cho phép người Do Thái trở về Jerusalem. Một số người lựa chọn không trở về: bắt đầu thời kỳ Cộng đồng Do Thái lưu vong.
538 TCN : Sau khi trở về từ Babylon, các học giả Do Thái bắt đầu sử dụng chữ viết Aramaic để viết chữ Hebrew.
515 TCN : Khánh thành Ngôi Đền Jerusalem xây dựng lần thứ hai. Bắt đầu thời kỳ Ngôi Đền thứ Hai.
480-440 TCN : Ezra giúp thiết lập lại trật tự của Judah và qui điển hóa Tanakh. Tanakh – Kinh Thánh Hebrew – trở thành kinh sách căn bản của Do Thái giáo, đặt ra những lề luật cho đời sống hàng ngày, giữ gìn văn hóa và lễ nghi Do Thái.
Thế Kỷ 5 TCN : Canaan rơi vào tay Đế chế Macedonia của Alexander Đại Đế.
198 TCN : Antiochus III của dòng họ Seleucid chinh phục Palestine.
166 TCN : Cuộc khởi nghĩa của người Do Thái dưới sự lãnh đạo của Maccabees dẫn đến việc thành lập vương quốc Do Thái độc lập dưới sự trị vì của các vua Do Thái triều đại Hasmoneans [164-63 TCN].
63-65 CN : Đại giáo chủ của phái Pharisees Joshua Ben Gamla ban hành sắc lệnh tôn giáo “takkanah” yêu cầu tất cả các ông bố Do Thái phải gửi con trai 6-7 tuổi tới trường tiểu học.
63 : Quân La Mã xâm lược Israel.
66 : Các đội quân La Mã đụng độ với người Do Thái ở Jerusalem, khởi đầu cho cuộc Đại khởi nghĩa của người Do Thái.
70 : Quân La Mã đánh chiếm Jerusalem và san bằng Ngôi Đền. Người Do Thái di cư khắp Đế quốc La Mã. Kết thúc thời kỳ Ngôi Đền thứ Hai [515 TCN – 70 CN].
70-313 : Đế quốc La Mã cai trị Palestine.
TK 1 – TK 6 : Babylon là trung tâm sinh hoạt của người Do Thái lưu vong.
200 : Sách Mishna hoàn thành.
313-636 : Đế quốc Byzantine cai trị Palestine.
500 : Sách Talmud (Pháp điển) của Babylon hoàn thành. Thời kỳ thế kỷ 3-5 gọi là Thời kỳ Talmud.
636-1091 : Người Ả Rập cai trị Palestine.
TK 8 – TK 15 : Tây Ban Nha là trung tâm sinh hoạt của người Do Thái lưu vong.
1091-1099 : Người Seljuk chiếm Palestine.
1099-1291 : Quân Thập Tự Chinh chiếm Palestine.
1291-1516 : Quân Mamluk chiếm Palestine.
1492 : Vua Tây Ban Nha ra sắc lệnh trục xuất người Do Thái.
1517-1917 : Palestine thuộc Đế Quốc Ottoman.
TK 16 – TK 18 : Ba Lan là trung tâm sinh hoạt của người Do Thái lưu vong.
1840 : Rabbi Judah Alkalai ở Bosnia khởi đầu ý tưởng về Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism).
1881 : Cuộc đại tàn sát người Do Thái tại Nga của Nga Hoàng.
1897 : Theodor Herzl tổ chức quốc Đại hội Zionist để bắt đầu di cư về Đất Thánh.
1901 : Theodor Herzl gặp Vua Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman là Abdulhamid II để yêu cầu thành lập quốc gia Do Thái trên mảnh đất Palestine.
1917 : Quân đội Anh đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman) và giữ quyền ủy trị Palestine cho đến 1948.
1933 : Hitler lên cầm quyền tại Đức.
1939-1945 : Thế Chiến II, thảm sát Holocaust. Phát xít Đức giết hại 6 triệu người Do Thái trong các trại tập trung.
1947 : Liên Hiệp Quốc đồng ý kế hoạch chia Palestine thành hai quốc gia Do Thái và Ả Rập Palestine.
14/5/1948 : Quốc gia Do Thái chính thức ra đời với tên gọi Israel, tuyên bố độc lập ngày 14/05/1948. Hơn 1 triệu người Palestine rời khỏi Israel. Khoảng 250.000 người Do Thái sống sót khỏi thảm sát Holocaust ở châu Âu trở về đất tổ./.
Bài viết được trích từ chương 1 cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.
https://nghiencuuquocte.org/2015/10/27/lich-su-do-thai-p-7/#more-11428
Tiếp theo Theodor Herzl, một Zionist khác, David Ben-Gurion, người mà sau này trở thành vị thủ tướng đầu tiên của nhà nước Israel vào năm 1948, đã tiếp nối và trở thành người lãnh đạo của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Với lòng khao khát vô bờ bến cho sự nghiệp phục quốc của người Do Thái, David Ben-Gurion đã đấu tranh không ngừng nghỉ và sau này được vinh danh là ‘người cha sáng lập ra tổ quốc Israel’. Nếu Theodor Herzl có thể khái quát hóa tầm nhìn cho chủ quyền của người Do Thái và kích thích cộng đồng Do Thái tha hương bằng khái niệm lãng mạn về một nhà nước chủ quyền, thì Ben-Gurion mới chính là người đưa tầm nhìn này từ một ý tưởng để trở thành một nhà nước thực sự có năng lực vận hành.
Thành lập nhà nước Israel năm 1948
Chủ nghĩa Zion hiện đại đã đặt viên gạch đầu tiên cho ý tưởng về một quê hương đất nước của người Do Thái với tên gọi Vùng đất Israel trên mảnh đất Palestine. Kể từ khi người Do Thái lưu vong gần 2.000 năm, Vùng đất Israel vẫn luôn là tâm điểm trong ý thức của người Do Thái.
Thực tế thì ngay từ đầu những năm 1900, người Do Thái đã bắt đầu mua đất và phát triển những vùng định cư ở Palestine. Vào năm 1909, thành phố Tel Avil của người Do Thái đã được thành lập, và vào năm 1920, khoảng 50.000 người Do Thái đã di cư trở về Palestine. Đến năm 1933 dân số Do Thái ở Palestine đã lên tới 220.000 người.
Tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua một kế hoạch phân chia vùng Palestine, sau khi chế độ ủy trị của Anh chấm dứt trên mảnh đất này, thành hai nhà nước Ả Rập Palestine và Do Thái. Tháng Năm năm 1948, người Do Thái ở Palestine tuyên bố thành lập Nhà nước Israel độc lập. Vào năm này, dân số của Israel chỉ vẻn vẹn có 700 ngàn người. Sau năm 1948, với chính sách hỗ trợ và khuyến khích của Nhà nước Israel, dòng chẩy những người Do Thái nhập cư từ khắp các miền đất trên thế giới vào Israel tăng lên cuồn cuộn: năm 1949 là 239.576 người; năm 1950 là 170.249 người; năm 1951 là 175.095 người. Trong giai đoạn 1990-1999, sau sự sụp đổ của Liên Xô, gần một triệu người Do Thái quay trở về Israel, phần lớn là khoa học gia, kỹ sư, chuyên viên học thức cao. Diện mạo của đất nước Israel thay đổi không ngừng. Hiện nay 9 trong 10 người Israel là dân nhập cư hoặc là con cháu thế hệ thứ nhất hay thứ hai của dân nhập cư. Israel giờ là nơi sống của những người có 70 quốc tịch gốc và các nền văn hóa khác nhau.
Về phần nhà nước Ả Rập Palestine, do xung đột kéo dài, phải đến tháng Năm năm 1994, sau Hiệp định Oslo, Chính quyền Palestine (tự trị) đứng đầu là Yasser Arafat mới được thành lập trên hai vùng đất tách biệt: Bờ Tây và Dải Gaza. Hai bộ phận này của lãnh thổ Palestine trên thực tế là hai vùng đất cách nhau khoảng 45 km. Bờ Tây nằm giữa Jerusalem – từ lâu đã được tuyên bố là thủ đô của cả Palestine và Israel – và Jordan về phía Đông. Dải Gaza là một dải đất nhỏ dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía Tây của Israel.
Văn hào Mark Twain [1835-1910] khi ghé thăm Palestine vào năm 1867, đã mô tả nó là: “… Một đất nước hoang vắng phủ đầy cỏ dại đến thê lương trong im lặng…. Chúng tôi không thấy một bóng người trên đường đi …. hầu như không một cây xanh hoặc một bụi cây ở bất cứ đâu. Ngay cả ô liu và xương rồng, những bạn bè gần gũi của khô cằn, đã gần như rời bỏ đất nước này…“. Nếu ông còn sống và quay trở lại Israel vào lúc này, ông sẽ phải sững sờ mà chứng kiến rằng một màu xanh của cây trồng và rau quả đã che phủ hầu hết các vùng đồi núi xa mạc hoang vu ngày xưa, các thành thị đang mọc lên, và sau hết, cuộc sống nơi đây đang nảy mầm.
Phụ lục: Các cột mốc thời gian
3760 TCN : Bắt đầu lịch Do Thái.
1812 TCN : Ngày sinh theo truyền thống của Abraham.
~1700 TCN : Jacob lãnh đạo người Do Thái di cư đến Ai Cập.
1300 TCN : Moses dẫn người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập về Miền Đất Hứa (Exodus). Trên đường đi, Moses nhận Mười Điều Răn của Thiên Chúa tại núi Sinai, Ai Cập.
1175 TCN : Người Philistines xuất hiện ở Canaan.
1200-400 TCN : Giai đoạn Kinh Torah được biên soạn.
1000-586 TCN : Thời gian áng chừng của các vương quốc Israel theo Kinh Thánh.
1043-1010 TCN : Người Do Thái thành lập vương quốc Israel, trị vì bởi Saul.
1002-970 TCN : David trị vì Israel, lấy Jerusalem làm thủ đô.
970-931 TCN : Solomon nối ngôi David và bắt đầu qui hoạch xây dựng lại Jerusalem.
922 TCN : Vương quốc Israel bị chia thành Israel ở phương Bắc và Judah ở phương Nam. Jerusalem trở thành thủ đô của Judah.
825 TCN : Ngôi Đền Jerusalem được hoàn thành.
720 TCN : Người Assyria xâm lược Israel và trục xuất 10 bộ tộc người Do Thái.
625 TCN : Đế quốc Assyria bị liên minh của Đế quốc Babylon và Median tiêu diệt.
586 TCN : Vua Nebuchadrezzar II của Babylon phá hủy Ngôi Đền của Solomon và bắt dân Do Thái về Babylon làm nô lệ. Kết thúc thời kỳ Ngôi Đền thứ Nhất [825 TCN – 586 TCN].
538 TCN : Đại đế Cyrus của Ba Tư tiêu diệt Đế quốc Babylon và cho phép người Do Thái trở về Jerusalem. Một số người lựa chọn không trở về: bắt đầu thời kỳ Cộng đồng Do Thái lưu vong.
538 TCN : Sau khi trở về từ Babylon, các học giả Do Thái bắt đầu sử dụng chữ viết Aramaic để viết chữ Hebrew.
515 TCN : Khánh thành Ngôi Đền Jerusalem xây dựng lần thứ hai. Bắt đầu thời kỳ Ngôi Đền thứ Hai.
480-440 TCN : Ezra giúp thiết lập lại trật tự của Judah và qui điển hóa Tanakh. Tanakh – Kinh Thánh Hebrew – trở thành kinh sách căn bản của Do Thái giáo, đặt ra những lề luật cho đời sống hàng ngày, giữ gìn văn hóa và lễ nghi Do Thái.
Thế Kỷ 5 TCN : Canaan rơi vào tay Đế chế Macedonia của Alexander Đại Đế.
198 TCN : Antiochus III của dòng họ Seleucid chinh phục Palestine.
166 TCN : Cuộc khởi nghĩa của người Do Thái dưới sự lãnh đạo của Maccabees dẫn đến việc thành lập vương quốc Do Thái độc lập dưới sự trị vì của các vua Do Thái triều đại Hasmoneans [164-63 TCN].
63-65 CN : Đại giáo chủ của phái Pharisees Joshua Ben Gamla ban hành sắc lệnh tôn giáo “takkanah” yêu cầu tất cả các ông bố Do Thái phải gửi con trai 6-7 tuổi tới trường tiểu học.
63 : Quân La Mã xâm lược Israel.
66 : Các đội quân La Mã đụng độ với người Do Thái ở Jerusalem, khởi đầu cho cuộc Đại khởi nghĩa của người Do Thái.
70 : Quân La Mã đánh chiếm Jerusalem và san bằng Ngôi Đền. Người Do Thái di cư khắp Đế quốc La Mã. Kết thúc thời kỳ Ngôi Đền thứ Hai [515 TCN – 70 CN].
70-313 : Đế quốc La Mã cai trị Palestine.
TK 1 – TK 6 : Babylon là trung tâm sinh hoạt của người Do Thái lưu vong.
200 : Sách Mishna hoàn thành.
313-636 : Đế quốc Byzantine cai trị Palestine.
500 : Sách Talmud (Pháp điển) của Babylon hoàn thành. Thời kỳ thế kỷ 3-5 gọi là Thời kỳ Talmud.
636-1091 : Người Ả Rập cai trị Palestine.
TK 8 – TK 15 : Tây Ban Nha là trung tâm sinh hoạt của người Do Thái lưu vong.
1091-1099 : Người Seljuk chiếm Palestine.
1099-1291 : Quân Thập Tự Chinh chiếm Palestine.
1291-1516 : Quân Mamluk chiếm Palestine.
1492 : Vua Tây Ban Nha ra sắc lệnh trục xuất người Do Thái.
1517-1917 : Palestine thuộc Đế Quốc Ottoman.
TK 16 – TK 18 : Ba Lan là trung tâm sinh hoạt của người Do Thái lưu vong.
1840 : Rabbi Judah Alkalai ở Bosnia khởi đầu ý tưởng về Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism).
1881 : Cuộc đại tàn sát người Do Thái tại Nga của Nga Hoàng.
1897 : Theodor Herzl tổ chức quốc Đại hội Zionist để bắt đầu di cư về Đất Thánh.
1901 : Theodor Herzl gặp Vua Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman là Abdulhamid II để yêu cầu thành lập quốc gia Do Thái trên mảnh đất Palestine.
1917 : Quân đội Anh đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman) và giữ quyền ủy trị Palestine cho đến 1948.
1933 : Hitler lên cầm quyền tại Đức.
1939-1945 : Thế Chiến II, thảm sát Holocaust. Phát xít Đức giết hại 6 triệu người Do Thái trong các trại tập trung.
1947 : Liên Hiệp Quốc đồng ý kế hoạch chia Palestine thành hai quốc gia Do Thái và Ả Rập Palestine.
14/5/1948 : Quốc gia Do Thái chính thức ra đời với tên gọi Israel, tuyên bố độc lập ngày 14/05/1948. Hơn 1 triệu người Palestine rời khỏi Israel. Khoảng 250.000 người Do Thái sống sót khỏi thảm sát Holocaust ở châu Âu trở về đất tổ./.
Bài viết được trích từ chương 1 cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.
https://nghiencuuquocte.org/2015/10/27/lich-su-do-thai-p-7/#more-11428
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét