Thứ Tư, 18 tháng 10, 2023

Nguyên nhân xung đột Israel-Palestine có từ thời thuộc địa

Nguyên nhân xung đột Israel-Palestine có từ thời thuộc địa
Xung đột Israel-Palestine có nguyên nhân lịch sử thời thuộc địa. Ban đầu Anh đã giúp người Do Thái và Liên Hợp Quốc cắt đất Palestine cho người Do Thái
Tự do cho người Palestine. Ảnh World Crunch

Các chiến binh Hamas đã giết chết hơn một nghìn người Israel trong các cuộc tấn công vào nhiều thị trấn ở miền nam Israel.

Đáp lại, Israel đã phát động chiến dịch ném bom ở Dải Gaza, giết chết hàng nghìn người Palestine. Israel đã huy động quân đội dọc biên giới Gaza, rõ ràng là để chuẩn bị cho một cuộc tấn công trên bộ.

Và hôm thứ 2 (ngày 9/10/2023) sau cuộc tấn công của Hamas, Israel tuyên bố “phong tỏa toàn bộ” Dải Gaza, ngừng cung cấp thực phẩm, nhiên liệu và các mặt hàng thiết yếu khác cho khu vực vốn đã bị bao vây trong một hành động, mà theo luật pháp quốc tế được coi là tội ác chiến tranh.

Nhưng những gì đã diễn ra đều có lý do của nó.

Trong nhiều thập kỷ, các phương tiện truyền thông phương tây, các học giả, chuyên gia quân sự và các nhà lãnh đạo thế giới đã mô tả cuộc xung đột giữa Israel và Palestine là khó giải quyết, phức tạp và bế tắc.

Dưới đây là giải thích – phân tích, một trong những cuộc xung đột kéo dài nhất thế giới:

1. Tuyên bố Balfour là gì?

Hơn 100 năm trước, vào ngày 2 tháng 11 năm 1917, ngoại trưởng Anh lúc bấy giờ là Arthur Balfour đã viết một lá thư gửi tới Lionel Walter Rothschild, người đứng đầu cộng đồng người Do Thái ở Anh.

Bức thư rất ngắn – chỉ 67 từ – nhưng nội dung của nó đã gây ra một cơn địa chấn đối với Palestine – vẫn còn được cảm nhận cho đến ngày nay.

Nó cam kết chính phủ Anh sẽ “thành lập ở Palestine một Nhà nước cho người Do Thái” và tạo điều kiện thuận lợi cho “việc đạt được mục tiêu này”. Bức thư được gọi là Tuyên bố Balfour.

Về bản chất, một cường quốc Châu Âu đã hứa với phong trào Phục quốc Do Thái sẽ thành lập một quốc gia, nơi người bản địa Ả Rập Palestine chiếm hơn 90% dân số.

Chế độ ủy trị của Anh được thành lập vào năm 1923 và tồn tại cho đến năm 1948.

Trong thời gian đó, người Anh đã tạo điều kiện cho người Do Thái nhập cư hàng loạt – nhiều cư dân mới đang chạy trốn chủ nghĩa Quốc xã ở Châu Âu – và họ cũng phải đối mặt với các cuộc biểu tình và đình công.

Người Palestine cảnh giác trước sự thay đổi nhân khẩu học của đất nước họ và việc Anh tịch thu đất đai của Palestine để giao cho những người Do Thái định cư.

2. Điều gì đã xảy ra trong những năm 1930?

Căng thẳng leo thang cuối cùng đã dẫn đến cuộc nổi dậy Ả Rập, kéo dài từ năm 1936 đến năm 1939.

Vào tháng 4 năm 1936, Ủy ban quốc gia Ả Rập mới thành lập đã kêu gọi người Palestine phát động một cuộc tổng đình công, giữ lại các khoản thuế và tẩy chay các sản phẩm của người Do Thái để phản đối chủ nghĩa thực dân Anh và sự gia tăng nhập cư của người Do Thái.

Cuộc đình công kéo dài 6 tháng, đã bị người Anh đàn áp dã man, họ đã phát động chiến dịch bắt giữ hàng loạt và tiến hành phá hủy nhà cửa mang tính trừng phạt, một hành động mà Israel vẫn tiếp tục thực hiện đối với người Palestine cho đến ngày nay.

Giai đoạn thứ hai của cuộc nổi dậy bắt đầu vào cuối năm 1937 và được lãnh đạo bởi phong trào kháng chiến của nông dân Palestine nhằm vào lực lượng Anh và chủ nghĩa thực dân.

Đến nửa cuối năm 1939, Anh đã tập trung 30.000 quân ở Palestine. Các ngôi làng bị ném bom bằng máy bay, lệnh giới nghiêm được áp đặt, nhà cửa bị phá hủy, các vụ giam giữ hành chính và giết người hàng loạt diễn ra phổ biến.

Song song đó, người Anh hợp tác với cộng đồng người định cư Do Thái và thành lập các nhóm vũ trang cũng như “lực lượng phản nổi” do Anh lãnh đạo, gồm các chiến binh Do Thái được đặt tên là Đội đêm đặc biệt.

Trong Yishuv, cộng đồng người định cư trước khi Nhà nước Do Thái được thành lập, vũ khí được bí mật nhập khẩu và các nhà máy sản xuất vũ khí được thành lập để mở rộng Haganah, lực lượng bán quân sự của người Do Thái, mà sau này trở thành nòng cốt của quân đội Israel.

Trong ba năm nổi dậy đó, 5.000 người Palestine đã thiệt mạng, 15.000 đến 20.000 người bị thương và 5.600 người bị cầm tù.Biểu đồ nhập cư. Ảnh Al Jazeera

3. Kế hoạch chia đất của Palestine cho người Do Thái của Liên Hợp Quốc?

Đến năm 1947, dân số Do Thái đã tăng lên tới 33%, nhưng họ chỉ sở hữu 6% đất đai.

Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 181, kêu gọi phân chia Palestine thành các quốc gia Ả Rập và Do Thái.

Người Palestine bác bỏ kế hoạch này vì nó giao khoảng 56% diện tích Palestine cho nhà nước Do Thái, bao gồm phần lớn khu vực ven biển màu mỡ.

Vào thời điểm đó, người Palestine sở hữu 94% diện tích Palestine ‘lịch sử’ và chiếm 67% dân số.

Kế hoạch phân chia đất đai Palestine của Liên Hợp Quốc. Ảnh Al Jazeera

4. Nakba năm 1948, còn gọi là cuộc thanh lọc sắc tộc ở Palestine

Ngay cả trước khi nhiệm vụ của Anh ‘hết hạn’ vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, lực lượng bán quân sự theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã bắt tay vào một chiến dịch quân sự, nhằm phá hủy các thị trấn và làng mạc của người Palestine, để mở rộng biên giới của nhà nước Phục quốc Do Thái sắp ra đời.

Vào tháng 4 năm 1948, hơn 100 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Palestine đã bị sát hại tại làng Deir Yassin ở ngoại ô Jerusalem.

Điều đó tạo nên ‘âm hưởng’ cho phần còn lại của chiến dịch, và từ năm 1947 đến năm 1949, hơn 500 ngôi làng, thị trấn và thành phố của người Palestine đã bị phá hủy trong cái mà người Palestine gọi là Nakba, hay “thảm họa” trong tiếng Ả Rập .

Ước tính có khoảng 15.000 người Palestine thiệt mạng, bao gồm cả hàng chục vụ thảm sát.

Phong trào phục quốc Do Thái đã chiếm được 78% diện tích Palestine ‘lịch sử’. 22% còn lại được chia thành khu vực hiện nay là Bờ Tây bị chiếm đóng và Dải Gaza đang bị bao vây.

Ước tính có khoảng 750.000 người Palestine bị buộc phải rời bỏ nhà cửa.

Ngày nay con cháu của Palestine, sống như 6 triệu người tị nạn trong 58 trại tồi tàn, trên khắp Palestine và các nước láng giềng Lebanon, Syria, Jordan và Ai Cập.

Ngày 15/5/1948, Israel tuyên bố thành lập.

Ngày hôm sau, cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel bắt đầu (lần đầu tiên) và giao tranh kết thúc vào tháng 1 năm 1949, sau hiệp định đình chiến giữa Israel và Ai Cập, Lebanon, Jordan và Syria.

Vào tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 194, trong đó kêu gọi quyền hồi hương cho người tị nạn Palestine.

Phong trào nổi dậy của người Palestine chống lại thanh lọc sắc tộc của Israel. Ảnh Al Jazeera

5. Những năm sau Nakba

Ít nhất 150.000 người Palestine vẫn ở lại nhà nước Israel mới thành lập và sống dưới sự chiếm đóng quân sự được kiểm soát chặt chẽ trong gần 20 năm, trước khi họ được cấp quyền công dân Israel.

Ai Cập tiếp quản Dải Gaza, và vào năm 1950, Jordan bắt đầu cai trị hành chính đối với Bờ Tây.

Năm 1964, Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) được thành lập và một năm sau, Đảng chính trị Fatah được thành lập.

6. Naksa, hay Cuộc chiến 6 ngày và các khu định cư

Vào ngày 5 tháng 6 năm 1967, Israel chiếm đóng phần còn lại của Palestine lịch sử, bao gồm Dải Gaza, Bờ Tây, Đông Jerusalem, Cao nguyên Golan của Syria và Bán đảo Sinai của Ai Cập, trong Chiến tranh 6 ngày, chống lại liên minh quân đội Ả Rập.

Đối với một số người Palestine, điều này dẫn đến cuộc di dời bắt buộc lần thứ 2, hay Naksa, có nghĩa là “sự thụt lùi” trong tiếng Ả Rập.

Vào tháng 12 năm 1967, Mặt trận nhân dân Giải phóng Palestine theo chủ nghĩa Mác-Lênin được thành lập. Trong thập kỷ tiếp theo, một loạt các cuộc tấn công và cướp máy bay của các nhóm cánh tả đã thu hút sự chú ý của thế giới đến hoàn cảnh khó khăn của người Palestine.

Việc xây dựng khu định cư bắt đầu ở Bờ Tây và Dải Gaza bị chiếm đóng.

Một hệ thống 2 tầng được tạo ra với những người định cư Do Thái được hưởng tất cả các quyền và đặc quyền của công dân Israel, trong khi người Palestine phải sống dưới sự chiếm đóng quân sự phân biệt đối xử và cấm mọi hình thức ‘thể hiện’ chính trị hoặc dân sự.

Khu định cư của người Do Thái. Ảnh Al Jazeera

7. Intifada đầu tiên 1987-1993

Phong trào Intifada đầu tiên của người Palestine nổ ra ở Dải Gaza vào tháng 12 năm 1987 sau khi 4 người Palestine thiệt mạng, khi một xe tải của Israel va chạm với hai xe tải chở công nhân Palestine.

Các cuộc biểu tình lan nhanh đến Bờ Tây, với việc thanh niên Palestine ném đá vào xe tăng và binh lính của quân đội Israel.

Nó cũng dẫn đến việc thành lập phong trào Hamas, một nhánh của Tổ chức anh em Hồi giáo tham gia vào cuộc kháng chiến vũ trang, chống lại sự chiếm đóng của Israel.

Phản ứng mạnh tay của quân đội Israel được gói gọn trong chính sách “Bẻ gãy xương” do Bộ trưởng quốc phòng lúc bấy giờ là Yitzhak Rabin chủ trương. Nó bao gồm các vụ giết người chớp nhoáng, đóng cửa các trường đại học, trục xuất các nhà hoạt động và phá hủy nhà cửa.

Intifada chủ yếu được thực hiện bởi những người trẻ tuổi và được chỉ đạo bởi Lãnh đạo quốc gia thống nhất của cuộc nổi dậy, một liên minh gồm các phe phái chính trị của người Palestine cam kết chấm dứt sự chiếm đóng của Israel và thiết lập nền độc lập cho người Palestine.

Năm 1988, Liên đoàn Ả Rập công nhận PLO là đại diện duy nhất của nhân dân Palestine.

Intifada được đặc trưng bởi các cuộc vận động quần chúng, các cuộc biểu tình quần chúng, bất tuân dân sự, các cuộc đình công được tổ chức tốt và các hợp tác xã cộng đồng.

Theo tổ chức nhân quyền B’Tselem của Israel, 1.070 người Palestine đã bị lực lượng Israel giết chết trong phong trào Intifada, trong đó có 237 trẻ em. Hơn 175.000 người Palestine đã bị bắt.

Intifada cũng thúc đẩy cộng đồng quốc tế tìm kiếm giải pháp cho cuộc xung đột.

8. Hiệp định Oslo và Chính quyền Palestine

Intifada kết thúc với việc ký kết Hiệp định Oslo năm 1993 và thành lập Chính quyền Palestine (PA), một chính phủ lâm thời được trao quyền tự trị hạn chế ở các khu vực thuộc Bờ Tây và Dải Gaza bị chiếm đóng.

PLO đã công nhận Israel trên cơ sở giải pháp 2 nhà nước và các thỏa thuận được ký kết một cách hiệu quả giúp Israel kiểm soát 60% Bờ Tây, cũng như phần lớn tài nguyên đất và nước của lãnh thổ.

PA được cho là sẽ dọn đường cho chính phủ Palestine được bầu lần đầu tiên, điều hành một nhà nước độc lập ở Bờ Tây và Dải Gaza với thủ đô ở Đông Jerusalem, nhưng điều đó chưa bao giờ xảy ra.

Những người chỉ trích PA coi đây là ‘nhà thầu phụ’ tham nhũng cho sự chiếm đóng của Israel, hợp tác chặt chẽ với quân đội Israel trong việc trấn áp những người bất đồng chính kiến ​​​​và hoạt động chính trị chống lại Israel.

Năm 1995, Israel đã xây dựng một hàng rào điện tử và bức tường bê tông xung quanh Dải Gaza, ngăn chặn sự tương tác giữa các vùng lãnh thổ bị chia cắt của Palestine.

Bờ Tây bị chiếm đóng. Ảnh Al Jazeera

9. Intifada thứ hai

Intifada thứ hai bắt đầu vào ngày 28 tháng 9 năm 2000, khi thủ lĩnh phe đối lập Likud Ariel Sharon có chuyến thăm đầy khiêu khích tới khu phức hợp Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa, với hàng nghìn lực lượng an ninh được triển khai trong và xung quanh thành phố cổ Jerusalem.

Các cuộc đụng độ giữa người biểu tình Palestine và lực lượng Israel đã khiến 5 người Palestine thiệt mạng và 200 người bị thương trong 2 ngày.

Vụ việc đã gây ra một cuộc nổi dậy vũ trang rộng khắp. Trong phong trào Intifada, Israel đã gây ra thiệt hại chưa từng có đối với nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của người Palestine.

Israel tái chiếm các khu vực do Chính quyền Palestine quản lý và bắt đầu xây dựng bức tường ngăn cách, cùng với việc xây dựng các khu định cư tràn lan, đã phá hủy sinh kế và cộng đồng của người Palestine.

Các khu định cư là bất hợp pháp theo luật pháp quốc tế, nhưng trong nhiều năm qua, hàng trăm nghìn người định cư Do Thái đã chuyển đến các khu định cư được xây dựng trên vùng đất ‘đánh cắp’ của người Palestine.

Không gian dành cho người Palestine đang bị thu hẹp khi những con đường và cơ sở hạ tầng chỉ dành cho người định cư chia cắt Bờ Tây bị chiếm đóng, buộc các thành phố và thị trấn của người Palestine trở thành ‘bantustan’ – những vùng đất biệt lập dành cho người Nam Phi da đen mà chế độ phân biệt chủng tộc trước đây của đất nước này đã tạo ra.

Vào thời điểm Hiệp định Oslo được ký kết, chỉ có hơn 110.000 người định cư Do Thái sống ở Bờ Tây, bao gồm cả Đông Jerusalem. Ngày nay, con số này là hơn 700.000 người sống trên hơn 100.000 ha (390 dặm vuông) đất bị tịch thu từ người Palestine.
Sự chia rẽ của người Palestine và cuộc phong tỏa Gaza

Lãnh đạo PLO Yasser Arafat qua đời năm 2004, và một năm sau, phong trào Intifada lần thứ hai kết thúc, các khu định cư của Israel ở Dải Gaza bị dỡ bỏ, binh lính Israel cùng 9.000 người định cư rời khỏi vùng đất này.

Một năm sau, người Palestine lần đầu tiên đi bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử.

Hamas giành được đa số. Tuy nhiên, một cuộc nội chiến Fatah-Hamas đã nổ ra, kéo dài nhiều tháng, dẫn đến cái chết của hàng trăm người Palestine.

Hamas trục xuất Fatah khỏi Dải Gaza, và Fatah – Đảng chính thống của Chính quyền Palestine – nối lại quyền kiểm soát các khu vực ở Bờ Tây.


Vào tháng 6 năm 2007, Israel áp đặt lệnh phong tỏa trên bộ, trên không và trên biển đối với Dải Gaza, cáo buộc Hamas là “khủng bố”.Dải Gaza bị Israel bao vây từ 2007. Ảnh Al Jazeera

10. Cuộc chiến ở Dải Gaza

Israel đã tiến hành 4 cuộc tấn công quân sự kéo dài vào Gaza: Vào các năm 2008, 2012, 2014 và 2021. Hàng nghìn người Palestine đã thiệt mạng, trong đó có nhiều trẻ em, và hàng chục nghìn ngôi nhà, trường học và tòa nhà văn phòng đã bị phá hủy.

Việc xây dựng lại gần như là không thể, vì cuộc bao vây ngăn cản vật liệu xây dựng như thép và xi măng đến được Gaza.

Vụ tấn công năm 2008 liên quan đến việc sử dụng các loại vũ khí bị quốc tế cấm, chẳng hạn như khí phốt pho.

Năm 2014, trong khoảng thời gian 50 ngày, Israel đã giết chết hơn 2.100 người Palestine, trong đó có 1.462 dân thường và gần 500 trẻ em.

Trong cuộc tấn công, được Israel gọi là Chiến dịch ‘cạnh bảo vệ’, khoảng 11.000 người Palestine bị thương, 20.000 ngôi nhà bị phá hủy và nửa triệu người phải di dời.Người Palestine tại Dải Gaza bị Israel phong tỏa 16 năm. Ảnh Al Jazeera

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét