Thứ Bảy, 14 tháng 10, 2023

Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái (P.4 và p.5)

Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái (P.4 và p.5)
Tác giả: Đặng Hoàng Xa
Những dấu ấn văn hóa lớn
Thời đại của các Ngôn Sứ [thế kỷ 8 – thế kỷ 5 TCN]
Từ thế kỷ 13 về sau, người Do Thái giáo chịu sự tẩy chay, bài trừ ở hầu hết ở mọi quốc gia châu Âu. Đến thế kỷ 18, ở mọi nơi người Do Thái giáo bị dồn vào những khu ổ chuột rất tù túng và không ánh sáng gọi là ghetto. Nhiều cuộc thảm sát người Do Thái giáo tiếp tục xảy ra.

Một phần ba của Kinh Thánh Hebrew được viết bởi các ngôn sứ hay còn gọi là tiên tri (prophets). Theo ngữ nghĩa, nevi’im, trong tiếng Hebrew là ngôn sứ hay tiên tri, tức là người phát ngôn thay mặt Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa. Họ có đặc sủng nhìn thấy những viễn ảnh qua sự linh ứng của Thiên Chúa. Ngoài chức năng nhân danh Thiên Chúa, ngôn sứ còn đóng những vai trò chính trị quan trọng trong xã hội, là người tư vấn cho hoàng gia, khởi xướng tình cảm quốc dân và hướng dẫn đạo đức cho xã hội. Nói cách khác, ngôn sứ là người đại diện cho lương tâm của Thiên Chúa, bênh vực cho công lý và con người.

Trong truyền thống Do Thái giáo, Adam, Moses, Samuel, Joshua đều là những ngôn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử Do Thái giáo. Tuy nhiên, theo sự đồng thuận của người Do Thái thì thuật ngữ ‘ngôn sứ chuyên nghiệp’ (professional prophets) nhằm ám chỉ ba vị đại ngôn sứ và 12 tiểu ngôn sứ. Các đại ngôn sứ là Isaiah, Jeremiah và Ezekiel. 12 tiểu ngôn sứ là Hosea, Joel, Amos, Obadiah, Jonah, Micah, Nahum, Habbakuk, Zephaniah, Haggai, Zechariah và Malachi. Mỗi đại ngôn sứ viết một cuốn trong các Sách Ngôn Sứ (Nevi’im), 12 tiểu ngôn sứ đóng góp chung một cuốn. Một vài ngôn sứ khác như Neriah, Baruch và Huldah có được nhắc đến trong Kinh Thánh.

Isaiah

Isaiah là một ngôn sứ đặc biệt được người Do Thái nhắc đến nhiều nhất. Ông sống trong thời đại đen tối nhất trong lịch sử Do Thái, thế kỷ 8 TCN. Ông đã chứng kiến người Assyria phá hủy Vương quốc Israel phương Bắc, một bi kịch đã được phản ánh qua những vần thơ chua xót của ông. Isaiah là ngôn sứ trong suốt bốn vương triều của Judah – Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah.

Isaiah chỉ trích mạnh mẽ sự tôn thờ cá nhân. Ông đi một bước xa hơn các ngôn sứ khác khi khẳng định rằng Thượng Đế từ chối nghi lễ của người Do Thái nếu người thực hành tôn giáo là hung ác và không chính trực. Có lẽ lời nói mạnh mẽ nhất của Isaiah là về việc xây dựng Vương quốc của Thượng Đế trên trái đất, đó là khi hòa bình ngự trị và “gươm giáo được rèn lại thành lưởi cầy”. Liên Hiệp Quốc đã sử dụng câu nói này như một lời tuyên ngôn không chính thức.

Những bài học trong thời kỳ lưu đày ở Babylon [586-538 TCN]

Người Do Thái xem cuộc lưu đày tới Babylon là sự trừng phạt của Thượng Đế. Tuy nhiên, cuộc sống ở Babylon không quá nghiệt ngã như thời kỳ nô lệ ở Ai Cập. Nhiều người Do Thái trở thành nhà buôn, cho vay tiền, thợ thủ công, chủ đất. Vua Jehoiachin của Judah cũng có một ghế cạnh Merodach, con trai của Nebuchadnezzar – vua của Đế chế Babylon.

Người Do Thái học được nhiều điều từ người Babylon. Các yếu tố lý thuyết mới được sàng lọc vào Do Thái giáo – sự di cư của linh hồn, các thiên thần, những khái niệm đầu tiên về thời kỳ Đấng Cứu Thế đang đến. Người Do Thái cũng hấp thu tư tưởng của Trí Thức giáo (Gnosticism[1]), còn gọi là Thuyết Ngộ Đạo…

Người Do Thái xứ Babylon được phép tự do thực hành đức tin của họ, và các nhà thông giáo (scribes) bắt đầu công việc quan trọng là sao chép lại những văn bản thánh (holy texts). Dần dần những nhà thông giáo này thay thế cho các tiên tri, và tầng lớp Rabbis (giáo sĩ Do Thái) đầu tiên đã ra đời cùng với các Hội Đường Do Thái (synagogues). Những thay đổi về tổ chức xã hội được khuyến khích: sự phân chia bộ tộc kiểu cũ ở Israel bị hủy bỏ và một cảm giác thống nhất về ‘bản sắc Do Thái’ đã hình thành.

Những cải cách quan trọng dưới thời Ezra [480-440 TCN]

Năm 538 TCN, sau khi người Ba Tư chinh phục Đế chế Babylon, Hoàng đế Ba Tư là Cyrus đã ban hành chỉ dụ trả lại tự do cho người Do Thái đang sống ở Babylon, cho phép họ quay trở lại đất tổ Judah. Ngôn sứ Isaiah đã tôn vinh Hoàng đế Cyrus là ‘người chăn cừu của Thượng Đế’ và ‘người được xức dầu’ qua hành động này. Khoảng hơn 40 ngàn người Do Thái đã từ Babylon quay trở về Judah. Tuy nhiên, những người mới trở về phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và Judah chỉ thực sự ổn định sau khi Ezra và Nehemiah trở về Jerusalem vài thế hệ sau đó. Những nhân vật có khả năng lôi cuốn này đã cải thiện đức tin của người Do Thái, tổ chức lại một hệ thống nhà nước và luật pháp đúng đắn, và định hình khuôn khổ cuối cùng của Kinh Thánh – một khởi đầu có tính chất quyết định hơn cả việc xây dựng lại Ngôi Đền.

Trong Sách Ezra (The Book of Ezra – cuốn thứ 23 trong Kinh Thánh Hebrew), Ezra cũng được gọi là ‘Ezra nhà thông giáo’ (Ezra the Scribe) và ‘Ezra Linh mục’ (Ezra the Priest). Có thể nói rằng, sau tất cả những thăng trầm, Ezra là người đã giúp thiết lập lại trật tự của Judah. Ông đã triệu tập Kresset HaGedolah, hoặc ‘Đại Hội Đồng’, và tổ chức này đã trở thành cơ quan lập pháp chính thức của Judah. Kresset HaGedolah đã điều hành mọi hoạt động của Judah thay cho quốc vương cho đến thế kỷ 2 TCN. Một điểm nhấn quan trọng trong thời kỳ này là 120 thành viên Kresset HaGedolah đã qui điển hóa Tanakh. Một vài thành viên đã đóng góp viết các văn bản thánh, như Ezra, Nehemiah, và nhà tiên tri cuối cùng, Malachi.

Năm 445 TCN, 13 năm sau khi Ezra trở về Judah, Nehemiah, quan châm rượu cho Vua Artaxerxes I của Ba Tư, trở thành thị trưởng của Judea thuộc Ba Tư. Là một nhà ngoại giao tài ba và một người cấp tiến, Nehemiah đã thuyết phục Vua Ba Tư cho phép người Do Thái xây dựng tường thành Jerusalem. Ông là nhân vật chính trong Sách Nehemiah của Kinh Thánh Hebrew, trong đó mô tả những việc làm của ông trong quá trình xây dựng lại Jerusalem trong thời kỳ Ngôi Đền thứ Hai.

Ezra và Nehemiah là hai tính cách trái ngược nhau. Một người bảo thủ và sùng đạo. Một người cấp tiến và trí tuệ. Tuy nhiên cả hai là một sự kết hợp tuyệt vời đã đem lại sức sống cho Judah và giúp dọn sạch những bợn nhơ của xã hội. Họ đã cùng ngồi đọc toàn bộ Kinh Torah giữa công chúng và tuyên bố rằng đó là hiến pháp của người Do Thái. Cùng với nhau, họ đã tạo dựng nên một nền tảng căn bản của đời sống Do Thái mà có thể cho là đã kéo dài cho đến ngày nay.

Kinh Thánh Hebrew được qui điển hóa

Trong thời kỳ Ezra, Kinh Thánh Hebrew (Hebrew Bible) – Tanakh – được qui điển hóa và trở thành kinh sách căn bản của Do Thái giáo. Thuật ngữ Tanakh được tạo thành từ những chữ đầu trong tiếng Hebrew của ba bộ sách: Torah (Sách Lề Luật), Nevi’im (các Sách Ngôn Sứ hay Sách Tiên Tri) và Ketuvim (các Sách Văn Chương); và là thuật ngữ thích hợp để mô tả kinh điển của Do Thái giáo; còn các thuật ngữ như Kinh Thánh Hebrew (Hebrew Bible) hoặc Kinh Cựu ước (Old Testament) thường được sử dụng bởi những người không phải Do Thái. Tanakh nguyên thủy được soạn bằng tiếng Hebrew, còn Kinh Cựu ước (Old Testament) và Kinh Tân ước (New Testament) của Ki-tô giáo được viết bằng tiếng Koine Greek (còn gọi là Alexandrian dialect hay Hellenistic Greek là một dạng chung của tiếng Hy Lạp được sử dụng trong suốt thời cổ Hy Lạp và La Mã). Tanakh bao gồm 24 cuốn sách, còn Kinh Cựu ước có nhiều hơn và bao gồm cả 24 cuốn của Tanakh nhưng sắp xếp theo một thứ tự khác.

Những cuốn sách tạo thành Tanakh được phát triển trong khoảng một thiên niên kỷ. Các văn bản cổ nhất dường như đến từ thế kỷ 11 hay thế kỷ 10 TCN, trong khi hầu hết các văn bản khác được phát triển sau đó. Đây là những sưu tập của các tác phẩm đã được chỉnh sửa từ các nguồn khác nhau và được gắn kết lại một cách vô cùng tỉ mỉ và cẩn thận. Còn riêng thuật ngữ “Kinh Thánh” mãi đến thế kỷ 4 sau CN mới được giáo chủ John Chrysostom [347-407] sử dụng. Ông đặt tên cho tất cả các sách Thánh của người Do Thái là Kinh Thánh. Để giữ cho văn hóa tôn giáo của mình không bị đồng hóa, người Do Thái coi việc học Kinh Thánh là một vũ khí và thông qua việc dạy con trẻ đọc Kinh Thánh để duy trì sự tồn tại của bản sắc dân tộc Do Thái.

Kinh Torah, còn gọi là Ngũ thư Kinh thánh hay Ngũ kinh Moses, là phần thiêng liêng nhất trong toàn bộ Kinh Thánh Hebrew vì nó chứa đựng lời của Thiên Chúa ban truyền lại cho người Do Thái qua Moses. Kinh Torah gồm năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh Hebrew – Sách Sáng Thế (Genesis), Sách Xuất Hành (Exodus), Sách Levi (Leviticus), Sách Dân Số (Numbers), Sách Đệ Nhị Luật (Deuteronomy). Đôi khi thuật ngữ Torah cũng hàm ý toàn bộ Kinh Thánh Hebrew.

Sách Ngôn Sứ (hay Sách Tiên Tri), theo truyền thống Do Thái, được chia thành 8 sách. Các bản dịch hiện nay lại chia chúng thành 17 sách. Theo thời gian, Sách Ngôn Sứ được chia làm hai phần: Ngôn Sứ Sớm và Muộn. Phần Ngôn Sứ Sớm gồm bốn sách: Sách Joshua, Sách Thủ Lãnh (Books of Judges), Sách Samuel I và II, và Sách Các Vua (Books of Kings) I và II. Phần Ngôn Sứ Muộn gồm bốn sách: Sách Isaiah, Sách Jeremiah, Sách Ezekiel, và một cuốn được viết bởi 12 Tiểu Ngôn Sứ.

Sách Văn Chương gồm 11 sách: ba sách thi ca – Thánh Vịnh (Book of Psalms), Sách Châm Ngôn (Book of Proverbs), Sách Job (Book of Job); năm sách Thánh Thi (Megillot) – Sách Nhã Ca (Song of Songs), Sách Ruth (Book of Ruth), Sách Ca Thương (Book of Lamentations), Huấn Ca (Ecclesiastes), Sách Esther (Book of Esther); và ba sách của Daniel, Ezra- Nehemiah, Sử Biên Niên I và II (Chronicles I và II) cũng của Ezra.

Theo mô hình được Ezra xây dựng 2.500 năm trước, Torah được đọc tại các Hội đường Do Thái theo chu kỳ của năm, trong các ngày thứ hai, thứ năm và thứ bảy (ngày Shabbat). Cùng với phần Torah, người Do Thái cũng ngâm các đoạn ngắn trong Sách Ngôn Sứ, Thánh Vịnh, hay Sách Châm Ngôn. Những đoạn ngâm này được chọn lọc để phù hợp với phần kinh Torah được giảng, và thường giúp cho các Rabbis (giáo sĩ Do Thái) thêm tài liệu cho bài thuyết giáo của mình.

Các phần khác của Kinh Thánh cũng được chọn đọc trong các ngày lễ hội. Các trích đoạn từ Thánh Vịnh, Sách Ngôn Sứ, Sách Châm Ngôn, và sau này bổ xung thêm các thơ ca thời trung cổ không nằm trong Kinh Thánh, được đọc trong những buổi lễ hàng ngày như shacharit (buổi sáng), mincha (buổi trưa), và ma’ariv (buổi chiều).

Ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp cổ đại trong thời kỳ Hellenism

Hellenism, còn gọi là ‘thời kỳ Hy Lạp hóa’ trong tiếng Việt, là một thuật ngữ thường được sử dụng bởi các nhà sử học để chỉ thời kỳ Hy Lạp cổ đại và lịch sử Địa Trung Hải từ sau cái chết của Alexander Đại Đế năm 323 TCN cùng với sự nổi lên của Đế chế La Mã biểu hiện qua trận đánh Actium vào năm 31 TCN tới cuộc chinh phục tiếp theo của triều đại Ai Cập Ptolemaic năm tiếp theo. Tại thời điểm này, ảnh hưởng văn hóa và quyền lực của Hy Lạp đang ở đỉnh cao ở châu Âu, châu Phi và châu Á.

Cho đến thế kỷ 4 TCN, trục chính của quyền lực chính trị Trung Đông chạy dọc từ bắc xuống nam – đó chính là cuộc chiến giành ảnh hưởng giữa Ai Cập và bất cứ ai kiểm soát Mesopotamia. Tuy nhiên, vị thế này đã bị sụp đổ với sự xuất hiện của một lực lượng mới đầy sức mạnh từ phương Tây. Đó chính là Hy Lạp, nói đúng hơn đó là phong trào ‘Hy Lạp hóa’ do người Hy Lạp điều khiển. Sự nổi lên của Hy Lạp trong thời kỳ này cho thấy một thách thức trí tuệ đáng sợ đối với người Do Thái thậm trí trước khi Alexander chinh phục khu vực Levant.[2]

Văn hóa Hy Lạp đã thâm nhập vào Trung Đông qua thương mại từ rất lâu trước thời Alexander Đại Đế. Hy Lạp đã mang đến một cách nhìn mới mẻ về thế giới, thách thức trí tuệ tất cả các dân tộc Levant bao gồm cả người Do Thái. Về mặt chính trị, tại Athens dưới thời Pericles thế kỷ 5 TCN, đã có một sự đổi mới về dân chủ. Các nhà viết kịch Hy Lạp lần đầu tiên thừa nhận ý tưởng về những lựa chọn đạo đức đang đối mặt mỗi cá nhân. Còn các triết gia thì bắt chước lời kêu gọi về ‘con người là thước đo của tất cả mọi thứ’. Các trường phái triết học liên tiếp ra đời, từ những môn đệ của Socrates, Plato, và Aristotle, tới những người theo chủ nghĩa hoài nghi, đã áp dụng các phương pháp có lý tính đối với những vấn đề sâu sắc nhất về đạo đức, chính trị và siêu hình.

Nhiều khía cạnh của văn hóa Hy Lạp như những tiếng chuông báo thức đối với người Do Thái: sự khoan dung đối với việc khỏa thân nơi công cộng và đồng tính; sự nẩy sinh của những hình ảnh thần thánh; tinh thần duy lý đem đến sự nghi ngờ về mặc khải của Thiên Chúa (divine revelation); và quan niệm về một nền văn minh dân chủ. Một số người Do Thái chống lại sự siết chặt của văn hóa Hy Lạp cổ đại trong nỗi lo sợ rằng nền tảng của Do Thái giáo sẽ bị hư hại. Họ lý giải rằng sự đồng hóa sẽ trừ tuyệt người Do Thái như một dân tộc đặc biệt. Tuy nhiên, một số khác chào đón sự tinh tế của văn hóa Hy Lạp.

Nhà truyền bá tích cực nhất của văn hóa Hellenism chính là Alexander Đại Đế. Alexander không phải người Hy Lạp, mà là con trai của Philip, vua của Macedonia, một tỉnh lệ thuộc Hy Lạp nằm ở vùng Balkans. Philip chinh phục Hy Lạp năm 338 TCN và bị ám sát hai năm sau đó. Khi còn nhỏ, Alexander Đại Đế đã từng theo học nhà triết học nổi tiếng của Hy Lạp là Aristotle, do vậy ông đặc biệt nhiệt thành truyền bá văn hóa Hy Lạp tới các dân tộc trong đế chế của ông. Năm 22 tuổi, ông thề sẽ hoàn thành giấc mơ của cha mình trong việc mở rộng sang phía Đông. Trong 10 năm, đánh đâu thắng đó, Alexander đã chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Palestine, Phoenicia, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày nay. Nhờ các cuộc chinh phục của Alexander Đại đế mà nền văn minh Hy Lạp cổ đại được phát triển mạnh mẽ từ Trung Á đến tận phía tây của Địa Trung Hải, mở đầu cho nhiều thế kỷ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa – Hellenism – như đã nói trên.

Trong giai đoạn Hellenism, nhiều người Do Thái được khuyến khích di cư sang Ai Cập. Ở đây họ phát triển thịnh vượng, xây dựng các Hội đường Do Thái và bắt đầu nói tiếng Hy Lạp. Ai Cập trở thành trung tâm sinh hoạt lớn thứ hai của người Do Thái lưu vong sau Babylon.

Vai trò của tầng lớp Rabbis (Giáo sĩ Do Thái)

Do Thái giáo và kể cả dân tộc Do Thái không bao giờ có thể sống sót nếu truyền thống Rabbis không được thiết lập. Trong suốt 2000 năm đằng đẵng lưu đầy, chính các Rabbis – những tinh hoa tri thức của dân tộc Do Thái – luôn xuất hiện từ thế hệ này qua thế hệ khác là những người đã kiên tâm giữ gìn những giá trị truyền thống của Do Thái giáo và giúp các cộng đồng Do Thái giáo gắn kết thành một sức mạnh thần thánh. Có thể nói nỗ lực không biết mệt mỏi này của các Rabbis là một trong những điều kì diệu của lịch sử và chính điều kỳ diệu này là nhân tố chính giúp cho Do Thái giáo trở thành mảnh đất tinh thần vững chắc trên đó đất nước Israel đã được xây dựng và nở hoa cho đến ngày nay.

Vậy thì ai là Rabbi đầu tiên và tên gọi ‘Rabbi’ nghĩa là gì?

‘Rabbi’ (số nhiều là ‘Rabbis’) trong tiếng Hebrew là ‘người thầy vĩ đại’. Trong tiếng Việt chúng ta dịch là ‘giáo sĩ Do Thái’. Danh hiệu chuyên nghiệp này (professional rabbi) đầu tiên được áp dụng cho Yehuda HaNasi. Ông là một giáo sĩ Do Thái sống trong thế kỷ 2 [135-217] và là người biên soạn Sách Mishna (còn gọi là Mishnah) – bản tóm lược đầu tiên bằng văn bản của ‘Khẩu Luật’ hay ‘Torah Nói’ (Oral Torah) của Do Thái giáo. Ông cũng là một nhà lãnh đạo chủ chốt của cộng đồng Do Thái trong suốt thời kỳ La Mã chiếm đóng Judea.

Tuy gọi Yehuda HaNasi là Rabbi đầu tiên, nhưng sự thực thì tầng lớp Rabbis đã được hình thành rất sớm trong thời kỳ người Do Thái lưu đầy ở Babylon khoảng thế kỷ 5 TCN, bắt nguồn từ các nhà thông giáo là những người làm công việc đơn thuần là sao chép lại những văn bản thánh. Theo như đã ghi lại trong Kinh Thánh Hebrew, Yehuda HaNasi biên soạn Mishna vảo khoảng năm 200 CN.

Theo truyền thống Do Thái, việc giám hộ Kinh Torah được thực hiện qua việc chuyển giao trí tuệ từ thế hệ trước xuống thế hệ sau, từ các tổ phụ xuống các bậc huynh trưởng, rồi xuống các ngôn sứ, Kresset HaGedolah (Đại Hội Đồng), và cuối cùng là các Rabbis cho đến ngày nay. Tín điều của Đại Hội Đồng đã trở thành châm ngôn của các ngôn sứ: “Hãy kiên nhẫn trong xét đoán, đào tạo nhiều môn sinh, và xây dựng một hàng rào xung quanh Torah”.

Một truyền thống khác liên quan đến Rabbis là việc phát triển trí tuệ của người Do Thái thông qua việc chọn lọc trong sinh đẻ, nôm na là “tạo giống”. Khác với các dân tộc khác, người Do Thái đã luật hóa việc tạo giống, đặt ra mục đích cụ thể thay cho việc tạo giống tự nhiên. Trong truyền thống Do Thái giáo, Rabbis là những người được chọn từ những người thông minh nhất. Thêm vào đó, do có uy tín và địa vị trong xã hội, các Rabbis rất dễ dàng lựa chọn hôn thê từ những gia đình có gia thế, học thức. Do những chọn lọc này, con cái của các Rabbis thường rất xuất chúng, giống như cha mẹ của chúng.

Xã hội Do Thái khuyến khích các Rabbis có con, thậm chí có nhiều con để sản sinh nhiều tài năng cho xã hội. Kinh Thánh Hebrew thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho con cái mình lấy con gái của các học giả. Kinh Thánh khuyến khích người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng đồng thời Kinh Thánh cũng đặt ra “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh con nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính nhờ “phanh hãm” này mà người nghèo, người ở tầng lớp thấp không sinh đẻ tràn lan, khiến số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người có gien tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn lọc có mục đích như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do Thái là điều dễ hiểu.

Bài viết được trích từ chương 1 cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.

Hình: Các rabbi trong một lần họp mặt tại Brooklyn, Hoa Kỳ, 2012. Nguồn: NBC.
---------------------

Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái (P.5)

Có thể nói cuộc xâm lăng Vương quốc Israel phương Bắc của người Assyria vào năm 720 TCN đã khởi đầu phong trào lưu vong (Diaspora) của người Do Thái sang các vùng đất khác trên thế giới, hình thành nên các Cộng đồng Do Thái lưu vong. Phong trào lưu vong càng phát triển mạnh vào cuối thế kỷ thứ nhất sau công lịch sau cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại người La Mã bị thất bại và quân La Mã phá hủy và san bằng Jerusalem vào năm 70. Có người bị ép buộc di cư. Có người tự ý. Dân tộc Do Thái bắt đầu cuộc đời trôi nổi, lang thang khắp Trung Đông, Địa Trung Hải và châu Âu qua nhiều thế kỷ.

Sự kiện Ngôi Đền Jerusalem bị phá hủy lần thứ hai vào năm 70 là một cú sốc lớn đối với người Do Thái lưu vong đến tận xương tủy. Giữa năm 115-117, người Do Thái một lần nữa tiếp tục nổi dậy chống lại kẻ cai trị La Mã và người láng giềng Hy Lạp ở một vài trung tâm lớn bên ngoài vùng đất Palestine: Alexandria, Cyprus, Mesopotamia, và Bắc Phi. Tất cả các cuộc nổi dậy này đều bị dập tắt, riêng ở Alexandria thì bị đàn áp dã man. Người Do Thái lưu vong hiểu một điều là họ cần có một cái đầu lạnh nếu dân tộc và đức tin Do Thái muốn được sống còn.

Bị lấy đi mất Ngôi Đền và không còn nơi thờ cúng, Sách Talmud được các Rabbis thời lưu vong thu thập và soạn thảo trong khoảng thời gian thế kỷ 3-5 đã trở thành ‘hiến pháp bỏ túi’ cho người Do Thái trong cuộc sống lưu đày. Sách Talmud đã khích lệ những tranh luận bác học, nghiên cứu và trở thành một kho tàng độc đáo về phong tục tập quán, nhân chủng, lề luật, lịch sử và văn chương của người Do Thái. Dần dà theo thời gian, Babylon đã thay thế Galilee để trở thành tâm điểm văn hóa và tôn giáo của người Do Thái.

Một điểm đặc biệt trong hành trình của người Do Thái lưu vong là, ở bất cứ nơi nào họ lưu lạc đến, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vật quý nhất mà họ mang theo mình không gì khác là cuốn Kinh Thánh cùng những lời Thánh Vịnh của Vua David:

Thiên Chúa khôi phục linh hồn tôi
Thiên Chúa dẫn tôi đi trên đường công chính vì danh Ngài
Dù có bước qua thung lũng bóng tối của cái chết
Tôi cũng không sợ cái ác vì Thiên Chúa đang ở với tôi…

Kinh Thánh Hebrew đối với người Do Thái là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, giúp họ giữ được bản sắc trong giấc mơ trở về Đất Thánh.

Trong năm thế kỷ đầu tiên sau công lịch, trung tâm sinh hoạt của người Do Thái chuyển từ Vùng đất Israel sang Mesopotamia, đặc biệt ở thủ phủ Babylon. Trong những thế kỷ tiếp theo, họ di chuyển xa hơn tới các quốc gia Trung Đông, rồi tới vùng vành đai Địa Trung Hải, châu Âu, Bắc Phi, Mỹ. Trung tâm sinh hoạt của người Do Thái tiếp tục di chuyển từ Babylon sang Tây Ban Nha, rồi Ba Lan. Ở bất cứ đâu, người Do Thái cũng hình thành nên những cộng đồng nhỏ rải rác. Trong khi họ tồn tại là một tôn giáo và một dân tộc, họ không thiết lập bất kỳ một thể chế chính trị nào.

Từ thế kỷ 13 về sau, người Do Thái giáo chịu sự tẩy chay, bài trừ ở hầu hết ở mọi quốc gia châu Âu. Đến thế kỷ 18, ở mọi nơi người Do Thái giáo bị dồn vào những khu ổ chuột rất tù túng và không ánh sáng gọi là ghetto. Nhiều cuộc thảm sát người Do Thái giáo tiếp tục xảy ra.

Tất cả những yếu tố này đã định hình lịch sử Do Thái trong gần hai ngàn năm tiếp theo. Trong khoảng thời gian dài đó, người Do Thái đã cho thấy khả năng phục hồi và kỷ cương đầy ấn tượng. Do Thái giáo được củng cố mạnh trong các cộng đồng Do Thái lưu vong.

Sách Talmud

Theo ngữ nghĩa, Talmud có nghĩa là ‘học’ (learning). Tuy nhiên ý nghĩa thực của Talmud còn rộng hơn rất nhiều. Với nhiều người, ngoài Kinh Thánh Hebrew thì sách Talmud là đại diện cho hiến pháp tôn giáo và dân sự của người Do Thái, một bản ‘hiến pháp bỏ túi’ đã giúp họ sống sót trong gần hai thiên niên kỷ lưu vong. Những người khác coi Talmud là kho tàng vô giá của văn minh Do Thái truyền thống.

Rộng hơn nữa, Talmud tượng trưng cho một quá trình kéo dài nhiều thế kỷ, một lối sinh hoạt của các học giả và một hướng dẫn sống cho tất cả những ai thực hành Do Thái giáo. Talmud chứa đựng những lề luật nghiêm ngặt, những tranh luận về đạo đức, minh triết của các nhà thông thái, lịch sử và triết học, những câu hỏi và trả lời, nhận định về những ý nghĩa tiềm ẩn trong Kinh Thánh, thậm chí cả truyện ngụ ngôn và phương ngôn tục ngữ. Kiệt tác đồ sộ này vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay và như được hiểu thì không bao giờ chấm dứt.

Rất hiếm ở các dân tộc khác (bao gồm Việt Nam) có những kiệt tác vô giá như thế này. Cũng rất hiếm ở các dân tộc khác có một diễn đàn như Talmud cho phép các nhà thông thái và giới trí thức được phản biện để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Người Do Thái đã làm được điều này từ trên 2.000 năm trước!

Khẩu Luật (Oral Law)

Hai bản Talmud của Palestine và Babylon, theo nghĩa hẹp, chỉ là giải nghĩa của Khẩu Luật (Oral Law). Về ngữ nghĩa, Khẩu Luật có nghĩa là những lề luật truyền miệng. Các truyền thống Do Thái cho biết Khẩu Luật đi kèm với Luật Viết (Written Law) – tên gọi khác của Kinh Thánh Hebrew – và được các ngôn sứ, các bậc trưởng lão, các Rabbis… truyền miệng cho các môn sinh của họ từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nền tảng của Lề Luật Do Thái là 613 mitzvot, hay ‘điều răn’, có thể tìm thấy trong Sách Levi (Leviticus) và Sách Đệ Nhị Luật (Deuteronomy) của Kinh Torah. Những điều răn này nhiều khi không được giảng giải cụ thể và đòi hỏi có thêm sự giải thích bên ngoài, và đó chính là lý do tại sao lại có Khẩu Luật. Thí dụ như, khi Kinh Torah đơn giản nói “thou shall not cook the calf in its mother’s milk” (Deuteronomy 14:21 – “Anh em không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con”), thì Khẩu Luật sẽ phải dựa trên chỉ dụ này mà dựng lên cả một câu chuyện giải thích như thế nào và tại sao người ta không thể nấu lẫn sữa và thịt cùng với nhau.

Vậy Khẩu Luật đã được hình thành như thế nào và tại sao đã là truyền miệng lại còn được biên soạn thành văn bản thánh?

Theo phương thức đã nói ở trên, các Rabbis thường cắt nghĩa một điều luật hay điều răn trong Kinh Torah song song với một truyền thống được truyền miệng. Khi trong Kinh Torah có những từ ngữ chưa được giảng giải, những nghi thức không có hướng dẫn thì người Do Thái mặc nhiên cho rằng họ đã biết thông qua kiểu truyền miệng. Cách giải thích song song này dần dần trở thành Khẩu Luật. Kết quả là trong vài ba thế kỷ sau sự sụp đổ của Ngôi Đền Jerusalem, nhiều phần trong Khẩu Luật được các Rabbis sưu tập và biên soạn lại thành một bộ sách quí gọi là Talmud. Đây là văn bản trung tâm của các Rabbis.

Mishna (hay Mishnah)

Về cấu trúc, Talmud gồm 2 bộ: Mishna được soạn vào thế kỷ 2, và Gemara được soạn vào thế kỷ 5. Mishna là bản tóm lược đầu tiên bằng văn bản của Khẩu Luật, thực chất tóm tắt tất cả những tranh luận của các thế kỷ trước từ thời Ezra và dựa trên đó định ra bổn phận và trách nhiệm của người Do Thái trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Rabbi Yehuda HaNasi là người đầu tiên biên soạn văn bản này vào năm 200. Câu hỏi là tại sao Rabbi Yehuda lại quyết định viết Khẩu Luật thành văn bản thánh? Một số cho rằng rất nhiều học giả đã hy sinh trong hai cuộc nổi dậy vì vậy việc viết Khẩu Luật thành văn bản đơn giản là để nhằm tránh sự thất lạc trong tương lai.

Gemara

Mishna đánh dấu sự kết thúc của một quá trình và bắt đầu của một quá trình khác. Như đã nói ở trên, Mishna được viết thành văn bản gồm những lề luật, hướng dẫn, tranh luận mà trước đây chỉ được truyền miệng. Nó cũng làm khởi phát những tranh luận nóng bỏng giữa các Rabbis, và những tranh luận này về sau đã được biên soạn thành một bộ sách chú giải chi tiết khác gọi là Gemara, lấy từ thuật ngữ ‘nghiên cứu’ (study) trong tiếng Aramaic.[1] Bộ Gemara này vượt trên cả những chú giải trong sách Mishna và Kinh Torah, đề cập tới mọi lĩnh vực trong đời sống của người Do Thái trong những năm lưu lạc. Có hai phiên bản Gemara: một Gemara được biên soạn bởi cộng đồng Do Thái giáo ở Palestine và một Gemara được biên soạn ở Babylon. Talmud là kết quả gộp chung cả hai bộ Gemara và Mishna. Bộ Talmud của Palestine được hoàn thành vào năm 425. Còn bộ Talmud của Babylon hoàn thành vào năm 500, có khối lượng gấp ba lần bộ Talmud của Palestine, in thành 5.894 trang khổ đôi với 12 tập và có ảnh hưởng rất lớn với cộng đồng người Do Thái giáo trên toàn thế giới. Toàn bộ Talmud có 63 bài luận, bao gồm những ý kiến của hàng ngàn Rabbis trong nhiều chủ đề, cả về pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác. Trong một số sách vở, thế kỷ 3-5 được gọi là ‘Thời kỳ Talmud’.

Một điều chắc chắn là Talmud có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của người Do Thái, cung cấp nghi lễ thực hành tại các Hội đường Do Thái và tài liệu cho các bài thuyết giảng của các Rabbis. Sách Talmud hé lộ những lời dạy cụ thể giúp con người kéo dài cuộc sống, tăng cường sức khỏe thể chất, mang lại sự ổn định về tinh thần, giúp xây dựng gia đình và xã hội vững mạnh, và cung cấp cho con người sự khôn ngoan trong mọi quyết định của cuộc sống.

Sự thành công đáng kinh ngạc của người Do Thái trong lịch sử đã trở thành điều bí ẩn và được nghiên cứu qua nhiều thế hệ và từ nhiều góc độ. Nhiều học giả cho rằng chìa khóa của sự thành công đó là vì trọng tâm của Do Thái giáo chính là đọc sách, học tập, và làm theo những lề luật và các điều răn trong Kinh Thánh và Talmud.

Halakha

Halakha là bộ luật tôn giáo Do Thái được xây dựng dựa trên Torah Viết (Ngũ kinh Moses) và Torah Nói (Talmud), quy định những điều người Do Thái được và không được làm, những điều họ nên và không nên làm trong mọi khía cạnh của cuộc sống thường nhật, từ việc thực hiện nghĩa vụ tôn giáo, lễ nghi cho tới quan hệ hôn nhân, từ ứng xử trong cộng đồng cho tới luật dân sự và hình sự. Torah Viết (Ngũ kinh Moses) đóng vai trò trung tâm trong việc định hình tất cả các khía cạnh của đời sống Do Thái trong và sau cuộc lưu đầy Babylon [586 TCN – 538 TCN]. Còn Torah Nói (Talmud) phát triển dựa trên các cuộc tranh luận, hướng dẫn, phân xử của các thế hệ học giả, hiền triết, Rabbis, những người nổi lên như những lãnh tụ tôn giáo thế hệ mới trong thời kỳ Đền Thờ thứ Hai. Có thể nói Kinh Torah, Talmud và cuối cùng bộ luật tôn giáo Halakha là trụ cột tâm linh vững chắc của Do Thái giáo, tạo ra sự khác biệt của Do thái giáo với các tôn giáo khác.

Bài viết được trích từ chương 1 cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.

Hình: Sách Kinh Talmud. Nguồn: jewishjournal.com.

(Còn tiếp)

[1] Aramaic: thuộc cận họ Semitic, nằm trong họ ngôn ngữ Phi-Á (Afro-asiatic). Tiếng Aramaic là một phần trong nhóm ngôn ngữ Tây-Bắc Semitic, trong nhóm này còn có các ngôn ngữ Canaanite như tiếng Hebrew và tiếng Phoenicia. Aramaic là ngôn ngữ chính của xứ Syria.

https://nghiencuuquocte.org/2015/10/23/lich-su-do-thai-p-4/
https://nghiencuuquocte.org/2015/10/24/lich-su-do-thai-p-5/#more-11421

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét