Việt Nam chọn Pháp quyền hay Pháp trị?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng - Trong các văn bản chính thức, cái mà chúng ta đã lựa chọn là nhà nước pháp quyền. Còn một số học giả lại cho rằng nên lựa chọn mô hình nhà nước pháp trị. Vậy chúng ta nên xây dựng nhà nước pháp quyền hay nhà nước pháp trị? Việc lựa chọn mô hình nhà nước pháp quyền là điều chúng ta nên khẳng định.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
Thực ra, nhà nước pháp quyền hay nhà nước pháp trị thì đều là những thứ do người nước ngoài nghĩ ra. Nhà nước pháp quyền có nguồn gốc tư tưởng từ Châu Âu. (Trong tiếng Pháp, đó là "Etat de droit"; trong tiếng Đức, đó là "Rechsstaat"). Nhà nước pháp trị có nguồn gốc tư tưởng từ Trung Quốc cổ đại.
Ngoài ra, lại còn có khái niệm pháp trị (Rule of law) theo cách hiểu của người Anh-Mỹ. Khái niệm pháp trị theo cách hiểu của người Anh-Mỹ rất gần với khái niệm nhà nước pháp quyền của người Châu Âu. Thế nhưng, khái niệm nhà nước pháp trị (hay cũng được gọi tắt là pháp trị) theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại (tiêu biểu là của Hàn Phi Tử) thì lại hoàn toàn khác hẳn.
Khái niệm pháp trị trong cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại đối lập với khái niệm đức trị. Pháp trị là dùng pháp luật để cai trị (Rule by law), chứ không phải dùng đạo đức để cai trị (Rule by moral). Trong trường hợp này, pháp luật chỉ là công cụ của nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật. Mà như vậy thì "may nhờ, rủi chịu", một nhà nước chuyên quyền, độc đoán có thể ban hành mọi thứ pháp luật, kể cả những thứ xâm phạm các quyền cơ bản của con người để cai trị.
Còn khái niệm pháp trị trong cách hiểu của người Anh-Mỹ thì đối lập với khái niệm nhân trị. Pháp trị là pháp luật cai trị (Rule of law), chứ không phải con người cai trị (Rule of person). Trong trường hợp này, không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả nhà nước.
Với tư cách là một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, nhà nước pháp quyền là không mang tính chất giai cấp. Bất cứ giai cấp nào muốn phụng sự nhân dân, muốn các quyền của mình không bị một nhóm những kẻ cầm quyền thật sự tước bỏ thì đều cần tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình nhà nước pháp quyền. Xây dựng đất nước theo mô hình nhà nước pháp trị (theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại) không thể đưa chúng ta đi được đâu xa, ngoài việc trở về với thời quá khứ.
Theo cách hiểu như trên, pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập (với chính trị, tôn giáo...). Nó bao gồm ba ý nghĩa cơ bản. Pháp trị là công cụ để điều chỉnh nhà nước (điều chỉnh quyền lực); Pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật; Pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức.
Với tư cách là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai chức năng: một là hạn chế sự độc đoán của nhà nước và hạn chế sự lạm quyền; hai là làm cho nhà nước hành xử hợp lý, làm cho chính sách của nhà nước được anh minh. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để hạn chế được sự độc đoán và sự lạm quyền của nhà nước?
Pháp trị trả lời câu hỏi này bằng cách đề ra những nguyên tắc cơ bản sau đây: Bảo đảm tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật phải được đặt trên nhà nước và đảng phái; Nhà nước phải tuân thủ một hệ thống thủ tục được xác lập từ trước và được công bố công khai; Bảo đảm nguyên tắc người dân được làm mọi điều pháp luật không cấm, nhưng nhà nước chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép.
Mặc dù những nguyên tắc nói trên hạn chế khả năng hành xử tùy tiện của nhà nước, nhưng chúng lại làm cho việc hành xử của nhà nước được dẫn dắt nên thường hợp lý và anh minh.
Với ý nghĩa bình đẳng trước pháp luật, tất cả các công dân đều ngang quyền với nhà nước. Không thể có chuyện, mọi vi phạm của người dân đều bị trừng trị, còn mọi vi phạm của nhà nước (hoặc của các quan chức nhà nước) đều được cho qua. Không thể có chuyện, cấm người dân đi xe máy để những người đi ô tô có đường đi thông thoáng hơn. Ngoài ra, khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự (mua hàng của các công ty chẳng hạn), nhà nước chỉ là một bên của quan hệ hợp đồng bình đẳng như các bên khác.
Công lý về thủ tục và về hình thức là thứ tương đối trừu tượng. Đại loại, công lý thì có công lý về nội dung và công lý về hình thức. Ví dụ, người phạm tội ác phải bị trừng trị là công lý về nội dung; còn, mọi bị cáo đều có quyền đòi hỏi được xét xử bởi một phiên tòa mà các thẩm phán là hoàn toàn độc lập và với những thủ tục tranh tụng công khai là công lý về hình thức. Người Anh-Mỹ rất coi trọng công lý về hình thức vì họ cho rằng khi các thủ tục được tuân thủ nghiêm ngặt thì công lý nội dung bao giờ cũng đạt được.
Cuốn Tinh thần Pháp luật (De l'Esprit des Lois) của Nam tước Pháp de Montesquieu được xuất bản năm 1748 đưa ra pháp minh về mô hình pháp quyền.
Với tư cách là công cụ bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức, pháp trị đòi hỏi: Hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các quy định công bằng về việc ban hành quyết định và về thủ tục (không thể thích thế nào thì quyết thế ấy); Các quy định về việc ban hành quyết định và về thủ tục phải được xác định từ trước và phải được công bố từ trước (không thể sửa luật chơi trong lúc đang chơi); Các quy định về việc ban hành quyết định và thủ tục phải được áp dụng một cách công khai, minh bạch (không thể áp dụng các quy định mà không dẫn chiếu được, không lý giải được); Các quy định về việc ban hành quyết định và thủ tục phải được áp dụng một cách nhất quán (không thể nay áp dụng thế này, mai áp dụng thế khác).
Khái niệm nhà nước pháp quyền của người Châu Âu rộng hơn khái niệm pháp trị của người Anh-Mỹ: về cơ bản nó bao gồm khái niệm pháp trị nói trên kết hợp với những tư tưởng và nguyên tắc của chủ nghĩa lập hiến tự do. Dưới đây là một vài tư tưởng và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến nói trên:
Một là, quyền lực giữa nhà nước và các công dân được phân chia theo kế ước xã hội (nhà nước không đương nhiên có quyền). Bản kế ước đó chính là bản hiến pháp. Hiến pháp vì vậy phải do quốc hội lập hiến soạn thảo và phải được toàn dân phê chuẩn. Việc sửa đổi hiến pháp phải do toàn dân phúc quyết.
Hai là, quyền con người là những quyền hiến định. Các quyền này là không thể bị xâm phạm. Hơn thế nữa, trách nhiệm của nhà nước là phải bảo đảm các điều kiện để người dân có thể thực thi được các quyền của mình.
Ba là, quyền lực của nhà nước phải bị phân chia để trách lạm quyền và lộng quyền.
Bốn là, các quyền lực nhà nước phải được tổ chức theo quyền tắc kiểm tra và cân bằng lẫn nhau (check and balance). Điều này vừa giúp cho việc tránh lạm quyền, vừa làm cho việc thực thi quyền lực được minh bạch và hợp lý...
Với những thông tin được trình bày trên đây, thiết nghĩ, việc lựa chọn mô hình nhà nước pháp quyền là điều chúng ta nên khẳng định.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng
(Tia Sáng)
Khái niệm pháp trị trong cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại đối lập với khái niệm đức trị. Pháp trị là dùng pháp luật để cai trị (Rule by law), chứ không phải dùng đạo đức để cai trị (Rule by moral). Trong trường hợp này, pháp luật chỉ là công cụ của nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật. Mà như vậy thì "may nhờ, rủi chịu", một nhà nước chuyên quyền, độc đoán có thể ban hành mọi thứ pháp luật, kể cả những thứ xâm phạm các quyền cơ bản của con người để cai trị.
Còn khái niệm pháp trị trong cách hiểu của người Anh-Mỹ thì đối lập với khái niệm nhân trị. Pháp trị là pháp luật cai trị (Rule of law), chứ không phải con người cai trị (Rule of person). Trong trường hợp này, không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả nhà nước.
Với tư cách là một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, nhà nước pháp quyền là không mang tính chất giai cấp. Bất cứ giai cấp nào muốn phụng sự nhân dân, muốn các quyền của mình không bị một nhóm những kẻ cầm quyền thật sự tước bỏ thì đều cần tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình nhà nước pháp quyền. Xây dựng đất nước theo mô hình nhà nước pháp trị (theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại) không thể đưa chúng ta đi được đâu xa, ngoài việc trở về với thời quá khứ.
Theo cách hiểu như trên, pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập (với chính trị, tôn giáo...). Nó bao gồm ba ý nghĩa cơ bản. Pháp trị là công cụ để điều chỉnh nhà nước (điều chỉnh quyền lực); Pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật; Pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức.
Với tư cách là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai chức năng: một là hạn chế sự độc đoán của nhà nước và hạn chế sự lạm quyền; hai là làm cho nhà nước hành xử hợp lý, làm cho chính sách của nhà nước được anh minh. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để hạn chế được sự độc đoán và sự lạm quyền của nhà nước?
Pháp trị trả lời câu hỏi này bằng cách đề ra những nguyên tắc cơ bản sau đây: Bảo đảm tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật phải được đặt trên nhà nước và đảng phái; Nhà nước phải tuân thủ một hệ thống thủ tục được xác lập từ trước và được công bố công khai; Bảo đảm nguyên tắc người dân được làm mọi điều pháp luật không cấm, nhưng nhà nước chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép.
Mặc dù những nguyên tắc nói trên hạn chế khả năng hành xử tùy tiện của nhà nước, nhưng chúng lại làm cho việc hành xử của nhà nước được dẫn dắt nên thường hợp lý và anh minh.
Với ý nghĩa bình đẳng trước pháp luật, tất cả các công dân đều ngang quyền với nhà nước. Không thể có chuyện, mọi vi phạm của người dân đều bị trừng trị, còn mọi vi phạm của nhà nước (hoặc của các quan chức nhà nước) đều được cho qua. Không thể có chuyện, cấm người dân đi xe máy để những người đi ô tô có đường đi thông thoáng hơn. Ngoài ra, khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự (mua hàng của các công ty chẳng hạn), nhà nước chỉ là một bên của quan hệ hợp đồng bình đẳng như các bên khác.
Công lý về thủ tục và về hình thức là thứ tương đối trừu tượng. Đại loại, công lý thì có công lý về nội dung và công lý về hình thức. Ví dụ, người phạm tội ác phải bị trừng trị là công lý về nội dung; còn, mọi bị cáo đều có quyền đòi hỏi được xét xử bởi một phiên tòa mà các thẩm phán là hoàn toàn độc lập và với những thủ tục tranh tụng công khai là công lý về hình thức. Người Anh-Mỹ rất coi trọng công lý về hình thức vì họ cho rằng khi các thủ tục được tuân thủ nghiêm ngặt thì công lý nội dung bao giờ cũng đạt được.
Cuốn Tinh thần Pháp luật (De l'Esprit des Lois) của Nam tước Pháp de Montesquieu được xuất bản năm 1748 đưa ra pháp minh về mô hình pháp quyền.
Với tư cách là công cụ bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức, pháp trị đòi hỏi: Hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các quy định công bằng về việc ban hành quyết định và về thủ tục (không thể thích thế nào thì quyết thế ấy); Các quy định về việc ban hành quyết định và về thủ tục phải được xác định từ trước và phải được công bố từ trước (không thể sửa luật chơi trong lúc đang chơi); Các quy định về việc ban hành quyết định và thủ tục phải được áp dụng một cách công khai, minh bạch (không thể áp dụng các quy định mà không dẫn chiếu được, không lý giải được); Các quy định về việc ban hành quyết định và thủ tục phải được áp dụng một cách nhất quán (không thể nay áp dụng thế này, mai áp dụng thế khác).
Khái niệm nhà nước pháp quyền của người Châu Âu rộng hơn khái niệm pháp trị của người Anh-Mỹ: về cơ bản nó bao gồm khái niệm pháp trị nói trên kết hợp với những tư tưởng và nguyên tắc của chủ nghĩa lập hiến tự do. Dưới đây là một vài tư tưởng và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến nói trên:
Một là, quyền lực giữa nhà nước và các công dân được phân chia theo kế ước xã hội (nhà nước không đương nhiên có quyền). Bản kế ước đó chính là bản hiến pháp. Hiến pháp vì vậy phải do quốc hội lập hiến soạn thảo và phải được toàn dân phê chuẩn. Việc sửa đổi hiến pháp phải do toàn dân phúc quyết.
Hai là, quyền con người là những quyền hiến định. Các quyền này là không thể bị xâm phạm. Hơn thế nữa, trách nhiệm của nhà nước là phải bảo đảm các điều kiện để người dân có thể thực thi được các quyền của mình.
Ba là, quyền lực của nhà nước phải bị phân chia để trách lạm quyền và lộng quyền.
Bốn là, các quyền lực nhà nước phải được tổ chức theo quyền tắc kiểm tra và cân bằng lẫn nhau (check and balance). Điều này vừa giúp cho việc tránh lạm quyền, vừa làm cho việc thực thi quyền lực được minh bạch và hợp lý...
Với những thông tin được trình bày trên đây, thiết nghĩ, việc lựa chọn mô hình nhà nước pháp quyền là điều chúng ta nên khẳng định.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng
(Tia Sáng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét