Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

Việt Nam: Những diễn biến kinh tế gần đây

Việt Nam: Những diễn biến kinh tế gần đây
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tháng 12-2014
Báo cáo thường niên của World Bank về Việt Nam
Nền kinh tế thế giới đang có một số dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên tốc độ hồi phục không đồng đều. Dự kiến tốc độ tăng trưởng toàn cầu năm 2014 sẽ tăng ở mức khiêm tốn, ở mức 2,6%, và đạt mức bình quân 3,3% trong giai đoạn 2015-17. 
Kinh tế Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro đã tăng trở lại trong quý 2 và quý 3 (Hình 1). GDP của Hoa Kỳ tăng mạnh ở mức 4.6% (đã điều chỉnh theo thời vụ và quy đổi ra năm) trong quý 2 và 3.9% trong quý 3 nhờ tác động của chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng, nới lỏng tài khóa, tăng việc làm, cải thiện niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng. 

Dự kiến tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ sẽ đạt trên 2% cho cả năm 2014 và tăng lên mức 3% trong năm 2015. Tuy nhiên, tại Khu vực đồng Euro, đà phục hồi bị suy yếu do lực cầu nội địa và tăng trưởng tín dụng yếu ớt, và triển vọng đầu tư ảm đạm. Tại Nhật Bản, GDP ước giảm 1.6% (mức quy đổi ra năm) trong quý 3 sau khi đã giảm 7.6% trong quý 2. Dự kiến tăng trưởng kinh tế ở cả khu vực Châu Âu và Nhật Bản đạt mức khoảng 1% trong năm 2014 và tăng chậm trong năm 2015. 

Hoạt động kinh tế đang phục hồi ở khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ dự kiến sẽ làm tăng nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, giúp khu vực này duy trì tốc độ tăng trưởng. Tăng trưởng ở các nước đang phát triển Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương sẽ giảm dần từ mức 7,2% vào năm 2013 xuống còn 6,9% vào năm 2014-15. Tuy nhiên, năng lực của của các nước khác nhau trong việc hưởng lợi từ sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu sẽ dao động một cách đáng kể, phản ánh những điểm nghẽn mang tính cơ cấu tác động tới đầu tư và khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu, cũng như giá cả xuất khẩu của các công ty sản xuất hàng hóa. Ngoài ra các nền kinh tế trong Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương cũng có cánh cửa để mở ra cơ hội, đó là thực thi những cải cách quan trọng – và trong một số trường hợp thì những cải cách đó lẽ ra đã phải được thực hiện từ lâu; ưu tiên trong ngắn hạn là giải quyết những yếu kém và những lĩnh vực kém hiệu quả do đã thực hiện những chính sách tiền tệ nới lỏng và kích thích tài khóa trong một thời gian dài. Trong dài hạn, cần tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện hậu cần thương mại, và tự do hóa dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả trong bối cảnh hội nhập khu vực Đã xuất hiện những dấu hiệu tích cực ban đầu về quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng GDP quý 3 của Việt Nam đạt mức tương đối cao là 6,2% (so với cùng kỳ năm ngoái), góp phần đưa tốc độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm 2014 lên 5,6%. Trong 9 tháng đầu năm 2014, tăng trưởng của các ngành kinh tế chính (trừ dịch vụ) đều đạt mức cao hơn so với cùng kỳ 2013. Dựa trên dấu hiệu tích cực này, tăng trưởng GDP của Việt Nam dự báo sẽ tăng nhẹ từ mức 5,4% của năm 2013 lên mức khoảng 5,6% cho cả năm 2014. Cầu nội địa vẫn còn yếu là yếu tố chính cản trở Việt Nam đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn.

Ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm xuống mức 2,6% (so với cùng kỳ) vào tháng 11 năm 2014 – mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2009. Lạm phát của Việt Nam dừng ở mức thấp một phần nhờ nguồn cung lương thực phẩm dồi dào, giá năng lượng giảm và cầu nội địa vẫn còn yếu ớt. Tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định kể từ khi NHNVN điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng 1% hồi tháng 6/2014. Cán cân thanh toán vãng lai mạnh hơn đã giúp Việt Nam tăng dự trữ ngoại tệ lên mức tương đương 3,1 tháng nhập khẩu vào tháng 6 năm 2014 từ mức 2,4 tháng vào tháng 12 năm 2013. Những diễn biến kinh tế vĩ mô tích cực này đã góp phần cải thiện mức xếp hạng rủi ro tín dụng quốc gia của Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam phát hành thành công 1 tỉ USD trái phiếu chính phủ trên thị trường vốn quốc tế, với mức lãi suất 4,8%/năm.

Thu ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm nay đã được cải thiện. Tổng thu ngân sách ước đạt 81% kế hoạch 2014 và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2013. Cùng lúc đó, tổng chi ngân sách cũng tăng 11.5% chủ yếu do chi thường xuyên. Chỉ tiêu bội chi ngân sách đề ra trong Kế hoạch Ngân sách năm 2014 là 5,3% GDP (tính theo phương pháp của Việt Nam). Phân tích Bền vững Nợ (DSA) gần đây nhất do IMF và Ngân hàng Thế giới phối hợp thực hiện (tháng 6 năm 2014) thì Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có mức độ rủi ro thấp về mức độ nợ công. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng khá nhanh của tổng nợ công trong vài năm gần đây đang trở thành vấn đề gây nhiều quan ngại. Chính sách tài khóa trung hạn cần hướng tới việc củng cố tài khóa hơn nữa trong bối cảnh dư địa tài khóa đang bị thu hẹp, và cần tính đến những rủi ro về nghĩa vụ nợ tiềm ẩn. Quá trình có thể được hỗ trợ thông qua việc cải thiện hiệu quả hành thu (thông qua việc mở rộng nguồn thu thuế, rút dần các biện pháp miễn thuế và không tiếp tục giảm thuế suất), giảm mức tăng trưởng chi tiêu, cải thiện hiệu quả đầu tư công và mở rộng quy mô áp dụng khung ngân sách trung hạn mà đã được thí điểm ở một số Bộ ngành để triển khai trên toàn quốc. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đảm bảo lưới an sinh xã hội khi Việt Nam chuyển đổi sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường nhiều hơn.

Tăng trưởng tín dụng vẫn thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra, làm cản trở nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện đẩy nhanh tín dụng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cho vay vẫn bị kìm nén - một phần do chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng còn xấu - một phần do các ngân hàng cũng còn quan ngại về sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp đi vay, do thị trường bất động sản èo uột, và do cầu tín dụng còn yếu với nguyên nhân xuất phát từ mức độ niềm tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư thấp. Việc tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ trong bối cảnh như vậy sẽ khó có khả năng mang lại tác động đáng kể tới tăng trưởng tín dụng chung. Tuy nhiên, mức tiền gửi trong khu vực ngân hàng tiếp tục tăng trưởng với tốc độ lành mạnh, từ đó đảm bảo mức thanh khoản phù hợp cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước vẫn tiếp tục trong tình trạng khá tương phản trong quá trình phục hồi kinh tế. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Tâm lý kinh doanh của khu vực FDI đã cải thiện trong vòng 1 năm qua. Phản ánh thái độ tương đối lạc quan của các nhà đầu tư nước ngoài, Chỉ số Quản trị Mua hàng (PMI) (được điều chỉnh theo mùa vụ) của khu vực sản xuất đã đạt mức 51 điểm vào tháng 10, một tín hiệu cho thấy khu vực này sẽ tiếp tục mở rộng. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước dường như vẫn chưa vượt qua khó khăn thách thức mà họ đã đối mặt trong vài ba năm qua. Số lượng các doanh nghiệp bị đóng cửa, phá sản hoặc tạm ngừng hoạt động vẫn tiếp tục gia tăng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước rõ ràng đang bị tác động tiêu cực bởi khả năng hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn, do lực cầu nội địa yếu và do môi trường cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước.

Chính phủ Việt Nam đã triển khai một số biện pháp quan trọng trong năm 2014 nhằm cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19 (ngày 18 tháng 3 năm 2014) trong đó ưu tiên rút ngắn thời gian xử lý và hoàn thành các thủ tục hành chính, giảm chi phí hành chính, và tăng cường mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước. Luật Phá sản sửa đổi được thông qua vào tháng 7 năm 2014 là một nỗ lực khác của Chính phủ trong việc cải thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, dự kiến sẽ cải thiện tình hình quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, hiện đang được sửa đổi và theo kế hoạch thì sẽ được Quốc hội thông qua vào tháng 11 năm 2014.

Mặc dù đà tăng tốc đã mạnh hơn nhưng tiến độ cải cách trong khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục chậm hơn so với chỉ tiêu đề ra. Chính phủ đã đưa ra một tầm nhìn chính sách rất rõ ràng về cải cách DNNN, nhưng mấu chốt là phải đảm bảo thực hiện một cách nhất quán hơn. 74 DNNN đã được cổ phần hóa vào năm 2013 (gấp ba con số năm 2011 và 2014) và đà tăng tốc vẫn tiếp tục được duy trì vào năm 2014. Tuy nhiên, mục tiêu cổ phần hóa 200 DNNN vào năm 2014 khó có khả năng trở thành hiện thực. Đã có một số tiến bộ kể từ khi có Nghị định 71, trong đó có quy định yêu cầu tất cả các doanh nghiệp nhà nước phi ngân hàng phải thoái vốn hoàn toàn khỏi 5 lĩnh vực rủi ro ngoài ngành kinh doanh cốt lõi trước năm 2015; tuy nhiên, tiến độ cũng lại chậm hơn so với dự kiến.

Để đạt được tiến bộ trong tương lai đòi hỏi phải tăng cường công khai thông tin, giám sát hiệu quả hoạt động, cải cách quản trị doanh nghiệp, đảm bảo minh bạch trong quá trình thoái vốn, và đảm bảo cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng trong việc giám sát doanh nghiệp nhà nước. Khung pháp lý cho việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được tiếp tục tăng cường thông qua việc ban hành Nghị quyết 15, trong đó có một kế hoạch hành động toàn diện nhằm thúc đẩy tiến độ thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước. Hai luật có liên quan – gồm Luật về Quản lý và Sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào Sản xuất và Kinh doanh và Luật Doanh nghiệp – đã được thông qua tại kỳ họp Quốc hội diễn ra trong tháng 11/2014.

Đẩy nhanh cải cách khu vực ngân hàng vẫn tiếp tục là một ưu tiên. Thanh khoản tốt đã giúp giảm bớt căng thẳng trong khu vực ngân hàng, mặc dù tiến độ thực hiện những cải cách cơ cấu quan trọng hơn cần phải được tăng tốc. Việc giải quyết nợ xấu trong hệ thống vẫn còn là một vấn đề chính gây quan ngại. Tính đến hết tháng 10 năm 2014, Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) mua được khối lượng nợ xấu với trị giá khoảng 90 nghìn tỉ đồng VN, tương đương với 4,2 tỷ USD. Tuy nhiên VAMC vẫn chưa đưa ra được một chiến lược rõ ràng và khả thi về việc giải quyết triệt để các khoản nợ xấu đó. Nỗ lực của VAMC trong lĩnh vực này đã và đang bị cản trở do chưa có được một khung pháp lý thuận lợi cho việc giải quyết tình trạng vỡ nợ và cấp quyền sở hữu tài sản, cũng như khung pháp lý cho việc bảo vệ VAMC và ngân hàng thương mại khỏi những vụ kiện tụng có thể xảy ra. Bản thân khối lượng nợ xấu trong hệ thống cũng còn chưa rõ ràng. Về mặt này, việc ban hành Thông tư 02 và 09 về phân loại nợ và trích lập dự phòng mất vốn là một bước đi đúng hướng, nhưng thực thi Thông tư 02 đã bị hoãn cho tới tháng 4 năm 2015. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu thực hiện 6-7 vụ Mua lại và Sát nhập (M&A) trong khu vực ngân hàng vào năm 2014, nhưng trong năm vừa qua chưa có vụ Mua lại và Sát nhập nào. Một tín hiệu tốt là theo báo cáo thì cho đến nay chưa có vụ Mua lại & Sát nhập nào trong các vụ đã được thực hiện đã dẫn tới hậu quả gây xáo trộn hệ thống, và điều này cũng có thể đúng.

Triển vọng trong trung hạn của Việt Nam cho thấy tăng trưởng GDP sẽ tiếp tục ở mức khiêm tốn và tình hình ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tiếp tục được củng cố. Theo kịch bản cơ sở thì tăng trưởng GDP ước tính sẽ đạt mức 5,6% cho cả năm 2014, nhờ tăng trưởng trong khu vực sản xuất chế biến, chế tạo, thương mại và nhờ hiệu quả hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Áp lực lạm phát dự báo ở mức thấp trong khi cán thương mại và thanh toán vangxlaij tiếp tục thặng dư. Việc Chính phủ tiếp tục cam kết củng cố tài khóa và giảm mức nợ là tín hiệu đáng khích lệ, và để thực hiện được những mục tiêu đó thì điều hết sức quan trọng là phải cải thiện hiệu quả thu ngân sách, kiểm soát chi thường xuyên tốt hơn, và cải thiện đầu tư công. Tuy nhiên, triển vọng kinh tế trung hạn của Việt Nam vẫn chịu tác động của những rủi ro về kinh tế vĩ mô sau đây: (i) tiến độ tương đối chậm trong việc cải cách DNNN và ngân hàng có thể gây tác động bất lợi đối với tình hình tài chính vĩ mô, làm ảnh hưởng tới triển vọng tăng trưởng và tạo ra nghĩa vụ nợ tiềm ẩn lớn cho khu vực công; (ii) định hướng xuất khẩu mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam khiến cho nền kinh tế này chịu rủi ro trước những diễn biến bất lợi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt là ở các nước phát triển vốn là nơi hấp thụ phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Xem thêm các phân tích chi tiết theo đường dẫn:

http://www-wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/IB/2014/12/01/000406484_20141201143505/Rendered/PDF/928250VIETNAME00Dec020140Vietnamese.pdf

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét