Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023

Tăng trưởng kinh tế quý I chậm nhất kể từ năm 2010

Tăng trưởng kinh tế quý I chậm nhất kể từ năm 2010
Hôm qua, 29/3/2023, Tổng cục thống kê đã công bố thông tin kinh tế - xã hội tháng Ba và 3 tháng đầu năm 2023. Tăng trưởng kinh tế chậm lại, khó khăn trong sản xuất kinh doanh, thất nghiệp cũng như lạm phát gia tăng là những điều không gây bất ngờ vì đã được dự báo từ quý 3 năm 2022. Để đảo ngược đà suy giảm kinh tế, các chuyên gia kêu gọi chính phủ giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế và Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên tiếp tục giảm lãi suất điều hành.

1. Tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2010
Theo ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), tăng trưởng GDP quý 1 năm 2023 đạt mức tăng 3
,32% so với cùng kỳ năm trước, thấp nhất kể từ năm 2011 đến nay, trừ năm 2020, thời điểm tăng trưởng kinh tế giảm cực mạnh do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Nhắc lại là tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 5,96%; 4,94%; 4,68%; 5,54%; 6,25%; 5,49%; 5,17%; 7,78%; 7,09%; 3,21%; 4,92%; 5,05%; 3,32%.

Trong tốc độ tăng trưởng 3,32% nêu trên, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91% vào mức tăng trưởng chung.

Đặc biệt nghiêm trọng là giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp quý I/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023. Nhắc lại là tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 8,37%; 7,40%; 3,81%; 4,14%; 8,38%; 6,05%; 3,84%; 8,88%; 8,13%; 4,48%; 5,93%; 7,16%; -0,82%.

Cầu giảm làm sản xuất suy yếu trong khi tồn kho toàn ngành công nghiệp tăng mạnh. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 17,7%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2023 là 81,1% (bình quân quý I/2022 là 79,9%).

Về sử dụng GDP quý I/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,01% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 0,02%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,33%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 10,52%. Tích lũy tài sản hầu như không tăng sẽ ảnh hưởng tới đầu tư và tăng trưởng trong những năm tới.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2023 theo giá hiện hành ước đạt 583,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ đi tốc độ tăng giá (quý I năm 2023, CPI tăng 4,18%; lạm phát cơ bản tăng 5,01% so với cùng kỳ năm trước), thì Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2023 giảm so với cùng kỳ năm trước.

Đáng lo ngại là trong khi vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội giảm thì vốn đầu tư của khu vực Nhà nước tăng mạnh (11,5%) và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 3 tháng đầu năm 2023 ước đạt 4,32 tỷ USD, chỉ giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng tới 14,8%). Điều này có nghĩa là vốn đầu tư của khu vực tư nhân đang giảm rất mạnh.

Tương tự, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/3/2023 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài chỉ 7,8 tỷ USD, tức là giảm tới 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cũng dễ hiểu vì dòng vốn toàn cầu đang suy yếu do tổng cầu yếu và do chính sách tài chính thắt chặt và lãi suất cao ở Mỹ và EU.

Cầu thế giới suy giảm cũng khiến xuất khẩu của VN bị thu hẹp khá mạnh. Giá trị kim ngạch hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá nhập khẩu quý I/2023 giảm lần lượt là 11,9% và 14,7% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung trong quý I năm 2023, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 20,6 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 23,6 tỷ USD.

2. Số doanh nghiệp từ bỏ thị trường cao kỷ lục, thất nghiệp tăng cao


Tính chung quý I/2023, cả nước có 57 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 19 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 20,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Như vậy, doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường nhiều hơn số doanh nghiệp tham gia vào thị trường.

Đáng lo ngại là số doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có thời hạn của hai khu vực chủ lực là kinh doanh bất động sản (BĐS) và công nghiệp chế biến, chế tạo tăng mạnh nhất; lần lượt tăng tới 60,7% và 26,4% so cùng kỳ 2022.

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 cho thấy số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn thấp hơn nhiều so với các quý năm 2022 (chỉ có 24,3%).

Hậu quả là chi phí doanh nghiệp tăng cao và thất nghiệp bùng phát

Theo Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, từ tháng 9/2022 đến tháng 1/2023, có gần 547.000 lao động tại 1.300 doanh nghiệp bị giảm giờ làm, ngừng việc do đơn hàng giảm, trong đó 75% là lao động tại doanh nghiệp FDI. Lượng đơn hàng mới giảm, hàng tồn kho tăng cao khiến nhiều doanh nghiệp thâm dụng lao động phải cắt giảm nhân công, giảm giờ làm, gây ảnh hưởng đến sinh kế của người dân.

Chỉ số sử dụng lao động tại doanh nghiệp công nghiệp thời điểm đầu tháng 3/2023 giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Thất nghiệp gia tăng khi doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất kinh doanh khi cầu tiêu dùng yếu cả trong nước và quốc tế.

Đáng ngạc nhiên là trong báo cáo kinh tế - xã hội tháng Ba và 3 tháng đầu năm 2023, Tổng cục Thống kê dù không đưa ra các số liệu minh chứng, nhưng vẫn đánh giá "Tình hình lao động, việc làm quý I năm 2023 phục hồi tích cực; đời sống nhân dân được đảm bảo; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2023 ước tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước giảm 0,21 điểm phần trăm; thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương là 7,9 triệu đồng/tháng, tăng 578 nghìn đồng". 

Tỷ lệ thất nghiệp giảm và tiền lương tháng của người làm công hưởng lương tăng tới 7,32% so với cùng kỳ năm trước là thông tin rất đáng ngờ, ngược với đánh giá của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và dư luận.

Một thông tin xấu tiếp theo là chi phí vận tải, chi phí vốn (lãi suất) và chi phí nhân công ở Việt Nam rất cao so với nền kinh tế khác trong khu vực thế giới khiến nhiều doanh nghiệp phải rời bỏ thị trường.

Tại Việt Nam, chi phí bảo hiểm các loại mà doanh nghiệp phải chi trả theo lương là 21,5%; mức cao nhất trong khu vực, chỉ thấp hơn Trung Quốc (28,5%). Tỷ lệ này ở Indonesia là 7%, Malaysia là 13%, Singapore là 17%, Indonesia là 11,74% (theo số liệu công bố trên trang Trading Economics). Trong khi ngành sản xuất của Việt Nam thâm dụng lao động, chi phí lao động quá lớn, không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế khác trong khu vực và thế giới.

Chi phí vốn của doanh nghiệp vẫn duy trì ở mức cao khi mức lãi suất bình quân của doanh nghiệp SMEs vẫn ở mức 11-13%/năm. Chỉ doanh nghiệp lớn mới tiếp cận vốn vay có lãi suất thấp hơn tại các NHTM lớn.

3. Ngân hàng nhà nước nên tiếp tục giảm lãi suất

Bức tranh u ám của kinh tế Việt Nam trong quý 1 tương hợp với bầu không khí kinh tế toàn cầu.

Nhiều chuyên gia kinh tế tiếp tục kêu gọi ngân hàng nhà nước giảm lãi suất điều hành. PGS. TS. Phạm Thế Anh, trên trang FB cá nhân của mình, đã nêu ý kiến rằng NHNN nên tiếp tục giảm lãi suất điều hành. Và đây cũng là ý kiến của nhiều nhà kinh tế khác. Bản thân NHNN cũng phát đi thông điệp trên truyền thông rằng sẽ cân nhắc giảm lãi suất điều hành.

Tuy nhiên, qua theo dõi trong nhiều thập kỷ, có thể thấy lãi suất điều hành của NHNN tác động rất khiêm tốn tới lãi suất cho vay trên thị trường tài chính. Ngoài ra, trong đợt giảm lãi suất điều hành gần đây nhất, NHNN đã không giảm lãi suất tái chiết khấu, khiến chi phí vốn của NHTM cũng giảm nhưng không đáng kể.

Thêm vào đó, số liệu quá khứ chứng minh rằng lãi suất cho vay (chi phí vốn của doanh nghiệp) thường tăng cao do khối nợ xấu của NHTM. Khi NHTM có nợ xấu, họ phải trích lập dự phòng nhiều hơn, họ phải tăng lãi suất cho vay để có tiền cho trích lập dự phòng. Nói cách khác, họ phải lấy của doanh nghiệp bớt ốm yếu để nuôi doanh nghiệp ốm yếu hoặc doanh nghiệp xác sống.

Nhìn vào khối lượng doanh nghiệp rời bỏ thị trường và thực tế doanh nghiệp kinh doanh BĐS, nợ xấu của nền kinh tế Việt có thể sẽ bùng phát mạnh vào cuối năm 2023; đặc biệt khi rất nhiều người đi vay mua nhà được ân hạn lãi suất 1 - 2 năm ở các dự án BĐS lớn sẽ không được ân hạn lãi suất nữa. Với mức lãi suất cao trong khi thu nhập và việc làm bị thu hẹp lại, có thể sẽ xuất hiện tình trạng nhiều cá nhân mua nhà mất khả năng thanh toán vào cuối năm nay và trong năm 2024. Khối nợ này lên tới 1,7 triệu tỷ VND (theo thông báo của NHNN).

Trong bối cảnh huy động khó khăn hơn, các vấn đề của NHTM nhỏ và yếu chưa được giải quyết triệt để, doanh nghiệp có lẽ không nên đặt quá nhiều hy vọng giảm lãi suất cho vay ở các NHTM. Thực tế trong mấy tháng qua, NHNN đã gây sức ép để các NHTM phải giảm lãi suất, nhưng lãi suất không giảm được bao nhiêu. Trong bất kỳ giai đoạn nào khi điều kiện tài chính thắt chặt, việc giảm nợ, nhất là nợ xấu, là quan trọng nhất.

Như đã nêu ở trên, doanh nghiệp Việt không chỉ chịu gánh nặng về chi phí vốn, gánh nặng về vận tải, chi phí logistics ở trong nước, mà gánh nặng chi phí lao động cũng đang rất lớn. Nhưng dường như chính phủ chưa tính tới các giải pháp giảm các chi phí này, nhất là khi còn rất nhiều dư địa để giảm nếu cương quyết, thực tâm muốn giảm; trong khi đây mới là những nhân tố cơ bản ngăn cản tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế. 

Nếu mục tiêu tăng trưởng và phục hồi kinh tế dựa quá nhiều vào chính sách tiền tệ và chính sách ngân sách, thì chắc chắn tăng trưởng đó chênh vênh như lâu đài xây trên cát, rất khó duy trì được sự bền vững trong trung và dài hạn.

4. Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê: Kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại những khó khăn, thách thức

Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới hiện nay, kinh tế quý II/2023 Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, chưa thể tăng trưởng bứt phá nhưng sẽ cải thiện hơn so với quý I/2023.

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong quý I/2023, kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với những khó khăn. Để tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5%, trong 9 tháng còn lại của năm 2023, kinh tế cả nước cần phải tăng khoảng 7,5%. Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kêNguyễn Thị Hương cho rằng, đây là mức tăng khá cao, trong bối cảnh các khó khăn, thách thức của nền kinh tế vẫn còn tồn tại; không những thế, những biến động từ kinh tế thế giới còn tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam… Để hiểu rõ hơn về bức tranh kinh tế quý I/2023 cũng như những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả năm 2023, BNEWS/TTXVN đã có cuộc trao đổi với Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương xung quanh nội dung này.

Phóng viên: Xin bà cho biết một số nét đặc trưng về tình hình kinh tế – xã hội quý I năm 2023?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Kinh tế – xã hội ba tháng đầu năm 2023 của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp và bất ổn. Tuy nhiên, các bộ, ngành, địa phương đã tập trung xây dựng kế hoạch hành động để thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng.

Cụ thể, tốc độ tăng GDP quý I năm nay đạt 3,32% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%.

Theo đó, sản lượng một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản chủ yếu đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I năm 2023 của một số ngành cấp 2 tăng so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới khi dịch COVID-19 được kiểm soát đã phát huy hiệu quả, tăng trưởng của một số ngành dịch vụ trong quý I năm 2023 đạt mức cao so với cùng kỳ năm trước.

Cùng với đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 13,9%; vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I năm 2023 theo giá hiện hành tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp…

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với những khó khăn như: chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao khiến người nuôi có nguy cơ thua lỗ; sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm do chi phí sản xuất đầu vào tăng cao, số lượng đơn đặt hàng sụt giảm.

Cùng với đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý I năm 2023 gặp nhiều khó khăn khi chi phí sản xuất đầu vào tăng cao, đơn hàng sụt giảm. Giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước vận tải, chi phí logistics… tăng cao làm tăng chi phí sản xuất và gia tăng áp lực lạm phát, tiềm ẩn rủi ro đối với ổn định kinh tế vĩ mô…

Tôi cho rằng, kinh tế – xã hội quý I năm 2023 của Việt Nam tuy chưa đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là kết quả tích cực, đáng ghi nhận khi tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới ở mức rất thấp hoặc đang suy giảm, khẳng định chính sách quản lý và điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từng bước phát huy hiệu quả.

Phóng viên: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ tiếp tục tăng lãi suất. Dự báo năm 2023 thương mại quốc tế suy giảm, kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái. xin bà cho biết điều đó có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam như thế nào?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Theo tôi, tăng lãi suất tạo áp lực tỷ giá với đồng nội tệ Việt Nam, buộc Ngân hàng Nhà nước sẽ phải có những chính sách điều chỉnh phù hợp để ổn định tỷ giá. Việc tăng lãi suất khiến đồng USD tăng giá, giá nhiên liệu và các mặt hàng khác sẽ tăng theo, từ đó các doanh nghiệp tại Việt Nam phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu đầu vào và nguồn năng lượng từ nước ngoài với giá cao.

Do lãi suất tăng nên khả năng vay vốn của doanh nghiệp sẽ giảm, khả năng phục hồi của doanh nghiệp sẽ yếu đi. Khi Fed tăng lãi suất sẽ đẩy giá trị của đồng USD lên. Giá trị USD tăng lên sẽ đẩy giá trị đồng Việt Nam (VND) xuống, làm tăng tỷ giá của VND với USD, tạo ra sự bất ổn trên thị trường ngoại hối.

Suy giảm kinh tế toàn cầu sẽ làm lượng kiều hối về Việt Nam giảm, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế Việt Nam do ảnh hưởng đến nguồn cung ngoại tệ và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có nguy cơ giảm.

Hơn nữa, khi kinh tế thế giới suy giảm, nhu cầu giảm, sẽ làm giảm các đơn hàng xuất khẩu của Việt Nam, làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm, điều này thể hiện trong kết quả hoạt động xuất nhập khẩu quý I/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%. Điều này đã ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất trong nước, đặc biệt là các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn như: Dệt may, da giày, sản xuất linh kiện điện tử máy vi tính…



Phóng viên: Theo bà, Chính phủ cần giải pháp gì để hạn chế các tác động tiêu cực, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Trước khó khăn, thách thức của kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế; đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, ngành hàng xuất khẩu để giảm bớt phụ thuộc vào các thị trường/ngành hàng truyền thống và thúc đẩy tiêu dùng trong nước.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao hiệu quả đầu tư công. Thực hiện chính sách tài khóa hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp để giảm áp lực chi phí đầu vào, thúc đẩy sản xuất; đồng thời, thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, tập trung giảm lãi suất huy động và cho vay, giữ ổn định mặt bằng tỷ giá phù hợp, đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, ổn định.

Phóng viên: Lạm phát thế giới vẫn dai dẳng ở mức cao, lãi suất USD tiếp tục tăng và cũng ở mức cao, nguyên liệu sản xuất trong nước phụ thuộc vào bên ngoài. Trong bối cảnh đó, sức ép đối với lạm phát trong nước như thế nào, thưa bà?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Trong năm 2023, các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng lạm phát là rất lớn với nhiều khó khăn và thách thức, nhất là giá nguyên vật liệu đầu vào thế giới đang ở mức cao. Việt Nam là nước nhập khẩu nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên sẽ nhập khẩu lạm phát, ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên. Bên cạnh đó, đô la Mỹ tăng giá càng làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, do đó sẽ càng gây sức ép lên mặt bằng giá hàng hóa trong nước.

Giá lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc, thiết bị và đồ dùng gia đình thường tăng theo quy luật vào các tháng cuối năm và dịp lễ, Tết. Ngoài ra, thiên tai và dịch bệnh có thể gây ảnh hưởng đến giá lương thực, thực phẩm tại một số địa phương, điều này cũng sẽ tác động làm tăng CPI.

Thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý theo lộ trình như dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục sẽ tác động tới CPI trong năm 2023.

Tuy nhiên, có nhiều yếu tố hỗ trợ kiểm soát lạm phát trong nước như chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, thận trọng với mục tiêu kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định vĩ mô. Giá xăng dầu được dự báo sẽ ở mức thấp hơn so với năm 2022. Với kinh nghiệm điều hành giá của Chính phủ, giá các dịch vụ do nhà nước quản lý sẽ được điều chỉnh một cách hợp lý. Nguồn cung lương thực, thực phẩm đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu…

Phóng viên: Trước những khó khăn, thách thức của nền kinh tế, xin bà cho biết kịch bản tăng trưởng kinh tế của quý II/2023 năm nay?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Theo kịch bản tăng trưởng đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ, để đạt mục tiêu cả năm tăng trưởng 6,5% thì quý I và quý II cần phải đạt được mức tăng lần lượt là: 5,6% và 6,7%. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế cả nước quý I/2023 chỉ ước đạt 3,32%, không đạt mức tăng đề ra, chủ yếu do các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo giảm; xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo như linh kiện điện tử, dệt may, da giày… sụt giảm, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng cùng kỳ năm 2022.

Để tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5%, trong 9 tháng còn lại của năm 2023, kinh tế cả nước cần phải tăng khoảng 7,5%. Đây là mức tăng khá cao, trong bối cảnh các khó khăn, thách thức của nền kinh tế vẫn còn tồn tại; những biến động từ kinh tế thế giới còn tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam…

Xu hướng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thường tăng thấp trong quý I, gia tăng dần ở quý II sau đó bứt phá ở nửa cuối năm. Năm 2023, kinh tế Việt Nam vẫn có thể đi theo xu hướng này. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới hiện nay, kinh tế quý II tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, chưa thể tăng trưởng bứt phá nhưng sẽ cải thiện hơn so với quý I. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, chúng ta kỳ vọng kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng vượt trội trong 6 tháng cuối năm.

Phóng viên: Xin bà cho biết, Tổng cục Thống kê đề xuất những giải pháp nào nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quý II và các quý tiếp theo trong năm 2023?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Để ổn định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quý II và các quý tiếp theo, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế cần tích cực thực hiện các giải pháp quyết liệt và đồng bộ để thúc đẩy tăng trưởng, vượt qua khó khăn thì mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,5% mới khả thi. Cụ thể, về phía cơ quan quản lý cần xây dựng chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp tình hình thực tế.

Mặc dù, nhiều ngân hàng đã đồng loạt hạ lãi suất sau thời gian đứng ở mức cao nhưng do độ trễ về thời gian, dự đoán trong thời gian tới mới thực sự đi sâu và ngấm để giảm chi phí đầu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh; kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, cần có giải pháp hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm…; đồng thời, có giải pháp hỗ trợ kịp thời một số ngành, lĩnh vực bị tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: sản xuất da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ… Chính sách tỷ giá cần áp dụng để thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.

Các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và các gói hỗ trợ, phục hồi kinh tế và phát triển kinh tế giúp tháo gỡ khó khăn tạo cơ hội cho các dự án thi công dở dang được khởi động lại, nhiều công trình được khởi công mới, từ đó tạo tăng trưởng tốt cho ngành xây dựng, giao thông vận tải gia tăng năng lực, cơ sở hạ tầng, thuận lợi cho sản xuất.

Các cấp các ngành và địa phương cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư, thành lập doanh nghiệp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch, bình đẳng và cạnh tranh, từ đó tạo hiệu quả về thu hút đầu tư.

Tôi cho rằng, ngành nông nghiệp đã thể hiện tốt vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế trong thời kỳ dịch bệnh và ngay cả khi các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu gặp khó khăn. Thời gian tới, các sản phẩm nông sản được dự báo vẫn được giá; cần thực hiện tốt công tác phát triển, mở rộng không gian cho ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp phát huy và đạt được kết quả tích cực.

Về phía các đơn vị sản xuất, kinh doanh cần bám sát thị trường, mở rộng hoạt động tìm kiếm khách hàng mới; tăng cường kết nối chuỗi sản xuất – tiêu thụ; cân đối lượng tồn kho và tiêu thụ để bảo đảm dòng tiền cũng như chất lượng sản phẩm, bố trí sản xuất linh hoạt để duy trì hoạt động sản xuất tối ưu…

Phóng viên: Xin cám ơn bà!

Nguồn: bnews.vn
https://bnews.vn/tong-cuc-truong-tong-cuc-thong-ke-kinh-te-viet-nam-van-con-ton-tai-nhung-kho-khan-thach-thuc/285866.html.

https://vnexpress.net/hon-nua-trieu-lao-dong-bi-giam-gio-lam-ngung-viec-4574697.html#:~:text=G%E1%BA%A7n%20547.000%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng%20t%E1%BA%A1i,2022%20%C4%91%E1%BA%BFn%20th%C3%A1ng%201%2F2023.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét