Người dân không còn tin vào v.xi.ne COVID-19
Jennifer Margulis - Joe Wang • 24/03/23 Trong một bài báo được đăng gần đây trên tạp chí Nature, nhà văn tự do Michael Einstein cho biết tỷ lệ tiêm v.xi.ne COVID-19 đang giảm dần - và nguyên nhân của điều này không chỉ là vì người dân từ chối tiêm v.xi.ne.1. Tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2008
Thật vậy, tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2008. Tổ chức Y tế Thế giới gọi đây là “sự sụt giảm liên tục lớn nhất trong lĩnh vực tiêm chủng cho trẻ em trong khoảng 30 năm trở lại đây”.
Việc áp đặt các lệnh phong tỏa hà khắc của cơ quan y tế công cộng tại các tiểu bang của Hoa Kỳ cùng cơ quan y tế ở các quốc gia khác đã khiến nhiều bậc cha mẹ cảm thấy sợ hãi, không muốn hoặc không thể đưa con đến khám bác sĩ.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn chính là những trường hợp đột tử ở người trẻ liên quan đến v.xi.ne mRNA và những loại v.xi.ne COVID-19 khác, cũng như hàng loạt tác dụng phụ nghiêm trọng (như tổn thương tim, thành phần máu bất thường, rối loạn chức năng đông máu nguy hiểm, bệnh về mắt và ung thư tiến triển nhanh) cùng với việc chính phủ và các cơ quan y tế của nhiều quốc gia cố tình không chú ý đến số ca tổn thương do v.xi.ne ngày càng tăng. Tất cả những điều này đã làm suy giảm niềm tin vào v.xi.ne của người dân.
Các chuyên gia mà Einstein đã phỏng vấn cho rằng việc do dự khi sử dụng v.xi.ne và từ chối tiêm v.xi.ne là một điều không tốt. Những chuyên gia này lo ngại việc các gia đình từ chối tiêm v.xi.ne sẽ dẫn đến hàng triệu ca tử vong có thể tránh được trên toàn thế giới.
Kate O'Brien, Giám đốc Điều hành của Trung tâm Tiếp cận v.xi.ne Quốc tế tại Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ở Geneva, Thụy Sĩ, nói với tạp chí Nature rằng: “Chúng ta đang nói về hàng chục triệu sinh mạng đang bị đe dọa”.
Nhưng chúng ta đã nhận thấy rằng trên thực tế các bậc cha mẹ sẽ không tin tưởng một cách mù quáng vào tất cả những điều mà cơ quan y tế tuyên bố là tốt. Đây chính là một bước để tiến tới nền y học cá nhân hóa và hạn chế việc dùng thuốc quá mức vì lợi nhuận.
2. Lạm dụng kháng sinh
Năm 1928, Alexander Fleming, một bác sĩ người Scotland đã phát hiện ra loại kháng sinh đầu tiên: penicillin. Quá trình phát hiện ra penicillin hoàn toàn là do tình cờ. Fleming là giáo sư ngành Vi khuẩn học tại Bệnh viện St. Mary ở London. Vào tháng 9 năm 1928, sau khi trở về từ kỳ nghỉ, Fleming tiến hành phân loại các đĩa petri đã nuôi cấy vi khuẩn trước đó.
Khi định dọn dẹp số đĩa petri này, có một chiếc đĩa đặc biệt đã khiến Fleming chú ý. Trên chiếc đĩa này mọc rải rác khuẩn lạc của Staphylococcus - loại vi khuẩn gây mụn nhọt, viêm họng và áp xe. Thế nhưng có một khu vực đặc biệt chỉ có một đám nấm mốc đang phát triển mà không có tụ cầu. Vùng ranh giới giữa nấm mốc và vi khuẩn rất rõ ràng, giống như nấm mốc đã tiết ra một chất gì đó để ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Fleming phát hiện ra rằng “nước chiết xuất từ nấm mốc” này, có khả năng tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn gây hại như liên cầu khuẩn, não mô cầu và trực khuẩn bạch hầu.
Khám phá của Fleming và việc ứng dụng kháng sinh trong y học đã cứu sống được rất nhiều người. Cùng sự ra đời của thuốc kháng sinh, cũng như việc cải thiện chất lượng vệ sinh và xử lý rác thải, sự bùng phát của các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gần như chỉ còn là quá khứ.
Một số người cho rằng sự gia tăng tuổi thọ ở Mỹ, từ 47 tuổi vào đầu thế kỷ 20 đến hơn 75 tuổi hiện nay chính là nhờ vào “kho báu thuốc kháng sinh” này.
Nhưng theo thời gian, các bác sĩ ngày càng ưa thích sử dụng kháng sinh đến mức họ kê đơn kháng sinh trong mọi trường hợp, ngay cả với những bệnh nhân nhiễm virus - loại nhiễm trùng mà kháng sinh không có tác dụng.
Đây là một sai lầm chết người trong y học. Việc sử dụng kháng sinh bừa bãi gây ra rất nhiều tác hại. Theo một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2019 công bố trên tạp chí Cell Reports, việc sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị các bệnh nhiễm virus như cúm sẽ khiến virus ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Kê đơn kháng sinh quá mức cũng làm gia tăng tình trạng kháng kháng sinh. Ngày nay, Tổ chức Y tế Thế giới mô tả tình trạng kháng kháng sinh là “một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe, an ninh lương thực và sự phát triển toàn cầu hiện nay”. Sự gia tăng của các loại siêu vi khuẩn, như Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA), loại vi khuẩn đề kháng với tất cả các loại kháng sinh đã trở thành một điều đáng lo ngại.
Trên thực tế, theo CDC, mỗi năm tại Hoa Kỳ có hơn 2,8 triệu ca kháng kháng sinh. Mỗi năm có ít nhất 35.000 người chết do những bệnh nhiễm trùng kháng kháng sinh này.
Con số thống kê trên toàn cầu còn đáng sợ hơn. Mỗi năm tình trạng kháng kháng sinh có liên quan đến 5 triệu ca tử vong trên toàn thế giới.
3. Tiêm v.xi.ne cho trẻ em để chống lại những căn bệnh chết người
Cũng giống như kháng sinh, việc tiêm v.xi.ne cho trẻ em đã cứu sống được hàng triệu sinh mạng. Các loại v.xi.ne truyền thống sẽ tạo ra được đáp ứng miễn dịch thích hợp, giúp cơ thể chúng ta nhận biết và chống lại các tác nhân gây bệnh. Ý tưởng về v.xi.ne đến từ Edward Jenner, một bác sĩ người Anh. Vào cuối thế kỷ 18, ông đã nhận thấy rằng những người vắt sữa tiếp xúc với bệnh đậu bò sẽ được bảo vệ khỏi bệnh đậu mùa.
Bệnh đậu mùa là căn bệnh rất dễ gây tử vong. Căn bệnh này giết chết gần một phần ba số người mắc bệnh và để lại sẹo suốt đời cho những người còn lại. Cơn sốt và những vết lở ngứa, chảy dịch do virus variola gây ra sẽ khiến người bệnh vô cùng đau đớn.
Khi Jenner cho con trai của người làm vườn tiếp xúc với mủ từ vết lở đậu mùa trên tay của một cô gái vắt sữa và sau đó cho đứa trẻ tiếp xúc với virus variola, thì cậu bé James Phipps, 8 tuổi đã không mắc bệnh đậu mùa.
Công nghệ v.xi.ne lúc này vẫn còn rất thô sơ. Jenner chỉ tiêm chất dịch nhiễm bệnh đậu bò vào cánh tay của những người khác để tạo miễn dịch. Từ đó về sau, công nghệ v.xi.ne đã dần được phát triển và cải thiện đáng kể.
4. Cứu người
Joe Wang là con út trong một gia đình có mười một người con. Hai anh trai của ông đã qua đời vì bệnh truyền nhiễm chỉ vài ngày sau khi sinh ra. Joe không muốn bi kịch này xảy ra với những đứa trẻ khác. Vì vậy, ông đã cố gắng lấy bằng tiến sĩ về di truyền học phân tử và cống hiến hết mình cho việc phát triển v.xi.ne nhằm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.
Nhiều người cho rằng nhờ vào việc sử dụng các loại v.xi.ne đã được thử nghiệm kỹ lưỡng, đảm bảo hiệu quả và an toàn mà số trẻ sơ sinh tử vong ở các nước công nghiệp hóa đã giảm đi rất nhiều so với thời điểm một trăm năm trước.
5. Tiêm v.xi.ne cho trẻ em: Quá nhiều quá sớm
Tuy nhiên, cùng lúc đó, ngày càng có nhiều tài liệu khoa học cho rằng việc tiêm v.xi.ne quá mức có thể làm tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Trong đó, bệnh tăng cường do v.xi.ne là một vấn đề lớn. Một số thành phần trong v.xi.ne có thể gây hại cho những người nhạy cảm. Đồng thời, việc tiêm quá nhiều v.xi.ne có thể là nguyên nhân gây ra những vấn đề sức khỏe làm mất khả năng lao động, bao gồm cả các bệnh tự miễn, trong thời thơ ấu và trong cuộc sống sau này khi trẻ lớn lên.
Vấn đề ở đây không phải là v.xi.ne tốt hay xấu mà cũng giống như kháng sinh, v.xi.ne đã được sử dụng một cách không hợp lý. Năm 1986, chính phủ liên bang đã thông qua Đạo luật Quốc gia về Tổn thương do v.xi.ne ở Trẻ em. Đây là một đạo luật bảo vệ các nhà sản xuất v.xi.ne không bị kiện vì những tổn thương do v.xi.ne gây ra.
Thay vào đó, gia đình của những người qua đời vì v.xi.ne và những bệnh nhân bị thương tật vĩnh viễn sẽ được bồi thường thông qua hệ thống “không xác định được lỗi” và được chi trả thông qua thuế tiêu dùng trên mỗi lọ v.xi.ne được bán ra.
Kể từ khi bộ luật liên bang này được thông qua, số lần tiêm v.xi.ne trong lịch tiêm chủng của trẻ em đã tăng lên gần gấp bốn lần.
Những loại v.xi.ne được thêm vào lịch tiêm chủng khuyến cáo của CDC là một loạt các v.xi.ne dành cho trẻ em và trẻ sơ sinh để chống lại các bệnh lây truyền qua đường tình dục, hai loại v.xi.ne chống lại các bệnh nhiễm trùng thông thường và nhẹ ở trẻ em (virus rota và thủy đậu) và v.xi.ne chống virus gây u nhú ở người (HPV). Những loại v.xi.ne này đã được chứng minh là có nhiều tác dụng phụ có thể gây hại cho trẻ.
6. Mỗi cá nhân cần sử dụng một loại thuốc phù hợp, đừng tin tưởng một cách mù quáng
Những người quan hệ tình dục không an toàn hoặc sử dụng ma túy đường tĩnh mạch có khả năng cao nhiễm viêm gan B. Nhân viên y tế hoặc cảnh sát làm việc với những người nghiện ma túy cũng có nguy cơ này. Đối với nhóm người có nguy cơ, việc chủng ngừa viêm gan B mang lại nhiều lợi ích.
Nhưng tiêm chủng rộng rãi cho toàn bộ trẻ sơ sinh ở Mỹ trong khi những trẻ này không có khả năng tiếp xúc với viêm gan B là một khuyến cáo không có cơ sở khoa học.
Mỗi người là một thực thể khác nhau—khả năng tiếp xúc với một căn bệnh nào đó của từng người là khác nhau, cũng như khả năng chống lại căn bệnh này của từng người cũng không giống nhau.
Những người mới làm cha mẹ thường sẽ nghiên cứu mọi thứ: từ chiếc ghế ô tô an toàn nhất cho đến những chiếc ghế êm ái nhất. Việc tìm hiểu về v.xi.ne sẽ bao gồm những thông tin như thành phần trong mỗi loại v.xi.ne, những nguy cơ và lợi ích khi mắc một bệnh nào đó theo cách tự nhiên, liệu căn bệnh đó có điều trị được hay không, cũng như nguy cơ phản ứng với v.xi.ne và các lựa chọn thay thế cho v.xi.ne. Kiến thức chính là sức mạnh. Và hiểu biết về v.xi.ne sẽ là cách tốt nhất để đưa ra các quyết định phù hợp nhất cho từng cá nhân.
7. Hãy đưa ra những lựa chọn thông minh
Chúng ta biết rằng mỗi sự vật hiện tượng đều sẽ có hai mặt. Kháng sinh là một công cụ mạnh mẽ trong y học nhưng việc kê đơn và sử dụng kháng sinh quá mức lại có thể gây tử vong. Tương tự như vậy, v.xi.ne có thể cứu sống được nhiều người. Chúng có thể mang lại những lợi ích bất ngờ nhưng cũng có thể dẫn đến những tác hại ngoài ý muốn.
Việc cân nhắc khi sử dụng v.xi.ne thực ra là một lựa chọn thông minh. Hãy luôn biết rằng việc lựa chọn lối sống khỏe mạnh ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, giảm căng thẳng và tránh tiếp xúc với các chất độc rất quan trọng đối với việc kéo dài tuổi thọ, duy trì sức khỏe cũng như việc hỗ trợ quá trình chăm sóc y tế.
Có một thực tế là không phải tất cả các loại v.xi.ne đều như nhau. Người dùng cần lưu ý rằng mỗi loại v.xi.ne có dữ liệu an toàn, mức độ hiệu quả và mức độ cần thiết khác nhau.
Các cơ quan y tế công cộng sẽ cần phải làm nhiều hơn để lấy lại niềm tin của công chúng. Tuy nhiên, trong thời gian này, chúng tôi tin rằng việc có những thay đổi hợp lý trong lịch tiêm chủng quá khắt khe cho trẻ em và người lớn ở Mỹ không phải là điều “nguy hiểm” hay “chết người”. Sự thay đổi này sẽ không thể dẫn đến cái chết không cần thiết. Thay vào đó, chúng tôi tin rằng điều này sẽ mang lại sức khỏe tốt hơn cho mọi người.
Tiến sĩ Jennifer Margulis: Là một ký giả từng đạt giải thưởng và là tác giả của cuốn sách “Con của bạn, theo cách của bạn: Chịu trách nhiệm về các quyết định mang thai, sinh con, và nuôi dạy con của bạn để có một gia đình hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn.” Bà từng đạt giải thưởng Fulbright và là mẹ của bốn đứa con, bà đã làm việc trong một chiến dịch nhằm giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ em ở Tây Phi, ủng hộ việc chấm dứt tình trạng nô lệ trẻ em ở Pakistan trên chương trình truyền hình vào khung giờ vàng ở Pháp, và dạy văn học hậu thuộc địa cho các sinh viên phi truyền thống ở nội thành Atlanta. Quý vị có thể tìm hiểu thêm về bà tại trang JenniferMargulis.net
Tiến sĩ Joe Wang: Là một nhà sinh học phân tử với hơn 10 năm kinh nghiệm trong ngành v.xi.ne. Ông hiện là chủ tịch của New Tang Dynasty TV (Canada).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét