Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

Đêm mơ

Đêm mơ
Buổi học đầu của lớp Toán Cao học. Người thiếu nữ đã đến lớp từ lâu, và người đàn ông, ngồi đằng sau, biết mình sắp chết đuối về bờ vai mềm và cái dáng dấp nhỏ bé rất Đông Phương ấy. Ông giáo sư già vào lớp, ngồi trên chiếc ghế và rảo mắt nhìn đám sinh viên. Sáu người học trò. Ông trao tờ giấy điểm danh xuống người ngồi hàng đầu. Tên tuổi. ID. Nhan thi Nguyen.
Đến phiên người đàn ông. Việt Nam. Niềm vui nho nhỏ dấy lên. Nguyễn thị Nhàn hay Nguyễn thị Nhân. Nhàn hay Nhân. Nhàn. Tôi thầm thì. Tên của một người xưa. Tên mà tôi viết cả ngàn lần trong những đêm ngày nhớ nhung chất ngất. Tên tôi gọi khi tôi quằn quại cùng vết thương, khi tôi đứng trên cao để nhớ đồi Nam Ô, và nhìn xuống thấp để nhớ về biển xanh dưới chân đèo Hải Vân. Tên trên phong bì, trên trang thơ, trên những giờ, những phút trải trong lòng nhật ký từ một nơi nào của thành phố Đà Nẵng.

Tôi nhắm mắt lại. Con tim già nua hôm nay bỗng nhiên rạo rực lại rồi. Tôi nhìn lên, gặp đôi bờ vai nhỏ. Ngày xưa, em cũng gầy guộc, em cũng dịu dàng, em cũng mong manh. Ngày xưa, Nhàn ơi, anh về phép, đội mưa ngoài cổng, để em phải bối rối tội tình trong chiếc áo mưa màu tím hoa cà. Ngày xưa cổng trường Phan Châu Trinh, học trò con gái khúc khích cười trước một cây si cổ thụ. Ngày xưa người về một ngày rồi lại bỏ đi, người đợi một ngày rồi lại ôm mặt khóc. Một người về đỉnh cao. Một người về vực sâu. Để cuộc tình chìm mau...
Ông giáo sư bắt đầu giảng bài. Ông dùng vụ án O J để chứng minh về vai trò quan trọng của Toán học. Ông đùa: “Bọn mày xem, bây giờ ai ai cũng trở thành toán gia. Luật sư, bác sĩ, ông quan toà, bồi thẩm đoàn, những tên không bao giờ thích Toán học bây giờ luôn luôn nói về xác xuất probability trong việc thử máu, và dùng toán thống kê để chứng minh... Sự thật là tuyệt đối. Cho dù xác xuất sai là 1 phần tỉ tỉ đi nữa, kết quả vẫn không phải là sự thật. Có nghĩa là không thể chứng minh OJ phạm tội.  Phải nhờ Toán học O J mới thắng. Còn nữa, Unabomber, cái ông toán gia làm điên đầu FBI cả hai mươi năm qua...”. Ông già nói liên tu bất tận. Có lẽ ông muốn trút hết nỗi hẩm hiu của một lớp quá chừng ít ỏi cũng như cái kiếp toán gia bạc bẽo của ông. Thật vậy, trong khi các lớp cao học khác, học trò chen lấn, đông đúc, thì mỗi lớp Toán, vỏn vẹn vài sinh viên. Cái thê thảm của một xã hội kim tiền. Có phải vậy không?
Cuối giờ, ông giáo sư đọc một mạch những bài homework cho kỳ đến. Tôi thấy Nhàn bối rối, chừng như không bắt kịp câu nói của vị thầy. Rồi lớp học tan. Bọn sinh viên mấy người hối hả đứng dậy. Chỉ còn Nhàn. Em ngồi lại. Như một con nai nhỏ tội tình. Vâng, tôi biết, ngày xưa, tôi cũng đã từng có những giờ phút khốn khổ như em hôm nay. Giờ đầu tiên tôi cũng đã từng tuyệt vọng nghĩ đến một cuộc đầu hàng. Tôi đến bên người con gái đồng hương, thăm hỏi. Nỗi buồn đến tội nghiệp. Và em đã bấu víu vào tôi.
***
Người đã gọi bên trời. Con sáo đã sổ lồng. Con sáo qua sông. Tôi như thằng bé nào cầm chiếc lồng trống trơn buồn xo bên dòng sông đỏ máu. Hai toà lầu Twin Towers. Toà Empire State Building. Chinatown. Holland Tunnel. Tượng Nữ thần Tự Do. Cầu Pulaski Skyway. Những ngày hôm qua, tôi và người và Nữu Ước. Hôm nào trời Nữu Uớc mưa bụi. Mưa làm dòng Hudson mờ đi, để buổi học đêm, bên kia bờ, triệu triệu ánh đèn phải trở thành những con mắt ràn rụa lệ. Để giờ break time, người và tôi, đứng trên lầu cao, và nhìn qua thành phố. Tôi kể những gì tôi biết về Nữu Ước. Tôi kể về một đêm đứng trên chóp đỉnh của toà Twin Towers mà nhìn xuống những con đường ngang dọc đan kết những chuỗi kim cương ngọc ngà, ngời sáng hầu như bất tận. “Nhàn biết không? Đó là những đoàn tắc xi Nữu Ước”. Tôi kể về quả cầu được thả xuống tại khu Times Square vào lúc giao thừa duơng lịch với hàng trăm ngàn người từ khắp nơi đổ xô về. Trai gái hôn nhau. Những chiếc hôn dài của mùa hạnh phúc.  Và tiếng còi xe, tiếng kèn giấy, tiếng phong cầm, và rượu chát, rượu mạnh, nút chai bật tung như pháo nổ. Và người ta nắm tay nhau khiêu vũ... Em thốt lên: “Vui quá hả ông? Ông có bao giờ đến đấy tham dự chưa?”. “Chưa cô à. Nếu cô muốn, tôi sẵn sàng làm người hướng dẫn”. “Vâng, thế nào em cũng nhờ ông”.  Nhàn ơi, tôi nhắm mắt lại đây. Cám ơn em, cho tuổi trẻ của tôi một lần trở dậy. Đêm nào như đêm hôm qua, khi tuyết trắng xoá phủ xuống Nữu Ước, khi muôn triệu ánh đèn kinh thành càng làm màu tuyết lung linh hơn, và rực rỡ hơn.
Đêm cuối năm, em xa nhà, và tôi cũng xa quê hương. Xe chờ em ngoài khu nội trú. Em khoác chiếc áo dạ đen. Mưa tuyết dập dìu trên đầu. Mưa tuyết óng ánh dưới ánh điện nhiều nến. Khu nội trú nhiều cửa sổ đèn tắt. Chắc hầu hết sinh viên đã trở lại nhà. Tôi mở cửa xe. Mở thêm quạt tuyết. Xe theo con đường chánh của quê hương Frank Sinatra. "Nhàn ơi, Nhàn có bao giờ nghe Frank Sinatra hát chưa?." "Frank Sinatra là ai hở ông?".  "Là một danh ca nổi tiếng của Mỹ. Ông ta có giọng hát thật ấm. Nơi đây là nơi ông lớn lên. Cả thành phố đều hãnh diện vì ông. Các quán cà phê, nhà hàng đều treo hình có cả chữ ký của ông nữa". "Thế thì được làm ca sĩ hạnh phúc quá ông nhỉ?". "Vâng, bởi vì ít ra ông cũng mang hạnh phúc cho một số người". FM106.7. Âm hưởng của một bản nhạc Giáng Sinh Holy Night. Vâng Đêm Thánh Vô cùng. Đêm ngày xưa hay là đêm nay. Cửa xe mở ra và em ngồi thu mình như con mèo nhỏ. Trời lạnh, nhưng hồn tôi ấm lắm. Xe chạy dưới mưa tuyết. Chiều cuối năm, khác với quê nhà, không có cảnh hối hả bồi hồi cho một cuộc trở về. Hay là tại lòng tôi, quá quen đến dửng dưng. Hơn mười năm xa quê hương, thời gian quá dài để làm chai sạn những nỗi nhớ nhung quay quắt. Con tim ngỡ đã ngủ yên. Bây giờ tự dưng em làm con tim tôi thức dậy. Em hay Nhàn xa xôi vời vợi ngàn trùng. Em hay Nhàn một thời để yêu và một thời để chết. Em làm tôi cứ nghĩ đến một người.
Xe đã ra ngoài xa lộ. Nhàn co ro. Đôi mắt mở lớn nhìn đêm. Đêm sáng lòa như tấm thảm kim cương mờ nhạt lệ mềm. Đêm đẩy đưa hai kẻ không quen bỗng nhiên gặp. Em có biết là tôi quá hạnh phúc không. "Nhàn muốn nghe nhạc không?".  "Ông có nhạc Bảo Yến không?".  "Không. Tôi chỉ biết Lệ Thu, Khánh Ly, Mai Hương, Thái Thanh".  "Họ hát ở bên này, phải không ông?". "Không. Họ là những ca sĩ nổi tiếng tại miền Nam trước 1975".  "Thế ư?". Rồi tiếng hát cất lên. Nhắm mắt. Cho tôi tìm một thoáng hương xưa. Nhàn có vẻ thờ ơ, lơ đãng nhìn ra ngoài đêm. Mưa tuyết rơi để đua tranh cùng cây quạt nước. Hàng xe đang chờ đợi nối đuôi. Dưới cầu phía Nam là phi trường Newark. “Nhàn thấy gì không, phi trường quốc tế Newark, đèn đuốc sáng trưng, cứ năm phút là mỗi chuyến bay đáp xuống hay cất cánh”. Tôi nói. “Quả thật vậy, thưa ông?”. “Vâng. Như vậy làm sao đủ thì giờ để người ta từ biệt, phải không ông?”.  “Vâng, đời sống ở xứ sở này đều hối hả, gấp rút, ngay cả nỗi chia ly. Không còn cảnh người đứng trên ngôi nhà gió nhìn ra phi đạo, thấy bóng người thân yêu của mình lẩn khuất vào lòng tàu”. "Ông ơi. Chắc ông có nhiều người để ông phải đưa tiễn".  "Tại sao Nhàn lại hỏi thế. Vâng, thì trong đời của bất cứ một ai đều có một lần từ ly".  "Thế ông đã có lần từ ly nào để mà ghi nhớ". Tại sao Nhàn lại hỏi như thế. Vâng, tôi đang nhớ đây. Nhớ một người tên Nhàn. Nhớ một người mong manh như sương như khói. Nhớ người nào luống cuống bên tôi, má au hồng, đêm đêm viết về tôi bao nhiêu dòng nhật ký... Nhớ để mà hiểu rằng, có nhiều chuyện không thể ngờ nổi, tưởng tượng nổi. Như Nhàn của một thời bây giờ lại trở lại bão bùng...
Rồi tiếng hỏi bên tai.
"Ông ơi, có phải hai tòa lầu chọc trời kia là Twin Towers?”.
"Vâng".
"Tại sao gọi là Twin?".
"Tại vì chúng giống nhau như đúc. Chúng sinh đôi. Tại vì người ta không muốn thấy chúng lẻ loi. Nếu lẻ loi, chắc chúng buồn lắm...".
Người con gái không nói. Em làm sao hiểu được thế nào là nỗi lẻ loi của một đời người. Muốn đọc lại câu thơ của Thanh Tâm Tuyền: Ôi những người khóc lẻ loi một mình, nhưng không dám. Tuổi em không phải là tuổi tôi. Không thể mang nỗi buồn rầu của thế hệ tôi về thế hệ em.
***
Xe vào khu Chinatown lúc hơn 8 giờ tối. Giờ này hầu như khu phố Tàu trở nên vắng vẻ. Chúng tôi tìm một quán ăn Việt Nam. Nhàn ăn rất ngon miệng. Tôi vừa uống bia vừa nhìn nàng. Cảm tạ Đất Trời đã cho tôi được gặp lại một bóng hình. Cảm tạ gương mặt thanh tú, mái tóc cắt ngắn, đôi vai gầy mảnh mai, để đêm nay, tâm hồn tôi phải ấm áp. Đêm cuối năm, tôi thèm phà khói thuốc để mờ đi gương mặt của người bạn học. Để bóng hình như hình sương và bóng khói. Như niềm hạnh phúc mà tôi bắt gặp đêm nay.
***
Sau đó chúng tôi lái xe đến Twin Towers. Trời đã bớt tuyết, nhưng gió từ sông Hudson thổi về lồng lộng giữa hai dãy lầu cao khiến chúng tôi phải co rúm lại trước những cơn gió thốc. Hơi thở thành khói. Dưới hàng hiên, một người homeless đang nằm ngủ. Không hiểu sao y lại ngủ được giữa cái giá rét cũng như náo nhiệt của một đêm cuối năm. Trong một quán cà phê, những mái đầu chạm nhau. Xe cộ vẫn tấp nập. Không khí của đêm giao thừa ở đây khác với quê nhà – Đây hình như người ta đổ xô ra đường. Còn ở quê nhà, người ta về bên trong cánh cửa của đoàn tụ, của giây phút gần gũi giữa người sống và người khuất – Đây niềm vui mở ra trên những vỉa hè tấp nập người, trên những con đường tấp nập xe cộ, trên những tiếng cười nói rộn ràng và tiếng nhạc vui mừng rộn ràng cả lòng phố. Nhất là ở khu vực World Trade Center này. Hình như người ta từ các nơi khác dùng xe bus, xe điện ngầm để về đây, rồi chuyển xe để về Times Square. Và trước khi đến Times Square họ muốn nhìn cả một New York về đêm. Bởi vậy, chúng tôi phải vất vả lắm mới tìm một bãi đậu xe. Sau đó chúng tôi hướng về Twin Towers. Hai bên đường, hầu hết các cửa tiệm đã đóng cửa. Những đoàn tắc xi vàng tiếp tục nối đuôi trên đường Church, Broadway, Chambers. Từ dưới chân tòa lầu chọc trời, nhìn lên muốn chóng mặt. Rồi mua vé. Rồi thang máy mở ra. Người phụ trách bấm nút. Thang máy vụt phóng lên, đưa người chạm với tầng không. Rồi cửa mở. Hơi lạnh ùa vào. Hai tai đã nghe hơi ù và một cảm giác hụt hẫng như ta đang ở trong vùng không trọng lực. Mắt người bạn gái chợt sáng lên như bắt gặp một niềm kinh ngạc thích thú. Tầng cuối cùng 110 như chạm lấy trời. Trên cao, một  chấm sáng rất mờ nhạt giữa cõi. Không biết là  ngọn đèn của chuyến bay đêm hay là một tinh cầu lạc lõng. Nhìn xuống, nhìn quanh, cả Nữu Ước như ngập cả một biển kim cương lộng lẫy xen kẽ những mái nhà tuyết trắng như tấm thảm óng ánh bạc. Dưới nữa là những con đường xen kẽ dày đặc, với hằng hà ngọn đèn sáng rực như đuổi nhau không bao giờ dứt. Nhàn reo lên: “New York. Đẹp quá ông ơi...”. Tôi chỉ nàng Tượng Nữ Thần Tự Do nằm bên sông Hudson. Tôi chỉ nàng hướng cửa biển, kể với nàng về những con tàu mang người di dân đến Nữu Ước đầu tiên. Tôi chỉ cho nàng cầu treo Brooklyn, với những sợi cable khổng lồ. “Nhàn biết không, đêm nay New York không ngủ. New York làm cả một nước Mỹ cũng không ngủ luôn”. “Tại sao vậy, thưa ông”“Tại vì mọi người đang hướng về New York trong đêm giao thừa. Có lẽ mọi người đều mở máy truyền hình để nhìn quả cầu khổng lồ ở Times Square được thả xuống đúng vào lúc đêm bước sang năm mới... Nhàn có thấy dưới đường kia không. Đại lộ American và đường số 5, rộng đến 6 lanes. Nhàn thấy cả đoàn xe đứng yên”. “Sao ông biết?”. “Bởi vì chúng ta không thấy những ngọn đèn kia di động nữa”. “Đúng rồi. Ông hay quá. Chắc ông yêu New York lắm phải không?”.  “Vâng. Nó làm tôi tìm lại một Sài Gòn xưa. Nó cũng có Phố Tàu, cũng có những quán cà phê lộ thiên, những vỉa hè đông như hội. Khi mình bước đi, mình không còn là mình nữa. Mình hòa nhập vào đám đông như dự phần vào một cuộc đại khiêu vũ...”.  “Chao ơi, ông kể làm Nhàn muốn chảy cả nước miếng...”.  "Nhàn ơi".  "Dạ. Thưa ông". "Nhàn hãy tìm giùm tôi hướng nào là Việt Nam của mình". Tôi hỏi Nhàn. Nhàn nhìn vào cõi đêm. "Thưa ông, hướng nào là Việt Nam. Em tìm không ra. Còn ông?". Tôi im lặng. Muốn nhìn thẳng vào đôi mắt để nói: "Tôi tìm được rồi.  Qua đôi mắt của em, qua giọng nói Việt Nam của em”.
Nhàn nhìn xuống thành phố. Người bạn gái nhỏ bé chắc buồn. Đôi mắt nàng long lanh. Hay là màu rực rỡ của New York phản chiếu. Nhàn hãy đứng yên để tôi chụp một tấm hình. Tôi nói. Nhàn nghe lời. Tôi điều chỉnh ống kính. Phía sau nàng, là cả một thành phố với muôn triệu ức ngọn nến đêm lung linh trang điểm như một bức tranh vĩ đại. Nhàn ơi, em biết không, tay tôi đang run đây. Tim tôi đang đập đây. Lòng tôi đang bồi hồi đây. Hãy cười. Hãy lung linh đôi mắt. Hãy co ro trong chiếc áo lạnh. Để tôi không bao giờ quên có một cơn mơ, một giấc chiêm bao trên tận cùng của chóp đỉnh Twin Towers, đêm cuối năm huyền nhiệm này.
***
Đêm còn lại, hai người đã hoà mình vào dòng thác người đông như kiến cỏ. Hầu như người mọi nơi đều đổ xô về Times Square. Đêm lạnh căm căm cùng những cơn gió lồng lộng thổi về từ sông Hudson. Trái cầu khổng lồ vẫn chờ đợi ở trên dàn. Đường Broadway, đường số 5, 6, 7 không còn di chuyển xe cộ được nữa. Nhạc Giáng Sinh tiếp tục lướt thướt từ những khu shopping gần đấy. Trời không tuyết nhưng trời lạnh xuống dưới độ đông. Hai người cầm tay nhau để khỏi lạc. Không ngượng ngùng. Không có cả một áng mây vẩn đục che xám cõi lòng. Đêm nay. Đêm của điều ao ước. Đêm của rượu nồng hạnh phúc cho cả năm và cả đời. Đêm của resolution. Dù phương Tây hay phương Đông. Thì ra ở đâu, nhân lọai vẫn có những giây phút hướng về hy vọng. Dẹp nỗi buồn sang một bên. U uẩn mãi có ích gì. Nhàn ơi, cám ơn cô bạn nhỏ, cám ơn tuổi trẻ, cám ơn cái giây phút mầu nhiệm, để mọi điều chân thiện mỹ, hạnh phúc, tốt đẹp, bình an, len nhập vào trái tim của mỗi con người. Cám ơn Nữu Ước, thành phố không phải là quả táo mà là trái tim...
Rồi quả bóng khổng lồ đã được thả xuống thật chậm. Chiếc kim đồng hồ to lớn trên khu Times Square vẫn tiếp tục nhích từng giây, cùng theo tiếng đếm vang rền: ten, nine, eight, seven, six, five, four, three, two, và one. Rồi một tiếng pháo nổ lớn cùng cả muôn hàng tia pháo bông rực rỡ in trên bầu trời đen đặc, tiếp theo là cả một tràng sấm động của mừng vui, của muôn lời chúc tụng, của bài hát Auld lang syne:  Should old acquaintance be forgot and never brought to mind. Should all acquaintance be forgot and auld lang syne. Và trong giây phút ngất ngây kỳ diệu, tôi và Nhàn đã ôm choàng lấy nhau. Rõ ràng chúng tôi đã không thể cưỡng chống lại cùng niềm kích ngất này. Có chất rượu nào say hơn. Tôi nhìn vào đôi mắt của người con gái: “Nhàn có ước ao gì cho năm mới không?”.  Người con gái nhắm mắt lại. Ánh sáng từ những tia pháo bông làm gương mặt nàng sáng lung linh. “Em ao ước...”.  Nàng ngừng nói. Tôi hiểu. Rất hiểu. Ai cũng có một người rất thân yêu được cất giữ trong con tim. Và Nhàn cũng vậy. Tôi cũng vậy. Cũng có một người nữ, đến với tôi bằng tất cả linh hồn và thể xác. Nàng đã ngửng mặt, ngửng đầu vì tình yêu, không bao giờ đặt những câu hỏi. Tôi nói với người bạn học: “Vâng, tôi xin tôn trọng niềm ao ước của Nhàn. Này, Nhàn hãy đặt một bàn tay lên tim và ao ước đi... Cả những gì Nhàn muốn thực hiện... Đêm nay linh thiêng lắm. Dường như mọi lời ao ước của chúng ta đều được các thiên thần lắng nghe…”. “Thật như vậy, phải không ông?”.  “Vâng. Nhàn thấy cả trăm ngàn người Mỹ đổ về đây đêm nay”. “Vâng, thì em sẽ ước. Ông đừng nhìn, em mắc cỡ lắm đó”. Rồi Nhàn nhắm mắt lại. Thành khẩn. Dịu dàng. Như một người nào. Xa xưa lắm. Mênh mông lắm. Vô lượng lắm. Phải. Em đã lay động con tim ngỡ một lần chai sạn.
Ngày ấy, anh đã nằm trên giường bệnh xá, để quằn quại với vết thương, để đau đớn với những cơn đau nhức, để cắn môi bụm miệng mà giữ chặt nỗi cô đơn cho khỏi trào ra, biến thành nỗi hẩm hiu chai cứng. Mùi ê te hăng hắc. Chai nước biển bên cạnh đầu giường càng lúc càng vơi dần. Người y tá gốc thiểu số mỗi ngày đẩy chiếc xe dụng cụ y tế đến giường, thay băng. Viên bác sĩ với cặp kính cận thị đầy soi mói, lục tìm dưới gối những viên thuốc ngủ... Vâng, qua em, tôi thấy lại một người. Tội cho tôi, sương thì sương, suơng che tầm mắt, nhưng người thì hiện bên trời. Dịu dàng như người nữ tu buớc vào cửa thánh. Mềm yếu như áng mây trời, loãng đi, loãng dần trong vùng suơng và khói. Mong manh như chút hạt sương. Người đã gọi tôi bên trời. Ai nói với tôi một câu: "Nhàn vẫn đẹp như dạo nào, vẫn thánh thiện như dạo nào".
Trời ơi, tại sao tôi lại tàn bạo đến như vậy. Đến gần cuối cuộc đời, cả lòng tôi vẫn còn sân si. Tôi nhắm mắt trong một giây một phút. Cái kiêu hãnh của một tên đàn ông nay đã tàn lụi. Tôi phải làm gì để tạ tình, để hết gọi kêu giữa trùng thẫm, để thôi chạy Đông chạy Tây bắt chụp lấy hình. Tôi phải làm gì để trải con tim của tôi cho một lần, rồi thôi rồi hết. Tôi phải làm gì để một lần nào đó, khi tôi nhắm mắt, khi tôi khép lại cánh cửa thế gian, thì lòng tôi sẽ phải bình thản, vì có người sẽ tha thứ cho tôi, từ bi từ độ vì tôi. Vâng. Tôi đã biết lỗi rồi. Con ma ám chướng đã qui hàng ngã quị rồi. Vết thương lòng từ lâu ngỡ đã được vá lành giờ đây lại thêm một lần bị vỡ nhọt. Vâng, Nhàn ơi, anh hiểu rồi. Và đêm nay, anh cũng xin ao ước như mọi người. Không tiền bạc. Không sang giàu. Không nhà nhiều phòng, xe tốt. Chỉ có một điều. Duy nhất. Cầu chúc những người gặp nhau sẽ không bao giờ chia xa...
***
Bây giờ lại thêm một ngày cuối năm nữa lại về trên đất khách. Trở lại dòng sông này mấy bận. Bên kia thành phố đã lên đèn. Cơn mưa nhòa nhạt hoàng hôn lạnh. Chiều cuối năm trời mau tối thêm. Đàn chim biển trên bến phà gọi nhau náo lọan. Những con tàu nằm bất động bên bờ xa. Đằng sau tôi, dãy building nội trú im lìm. Vài ô cửa thấy thấp thoáng ánh đèn. Tôi biết hầu hết sinh viên đều trở lại nhà trong mùa Season greetings này. Tôi tìm trên ấy một ô cửa. Ô cửa đã không còn ánh đèn. Ô cửa đã đóng lại, bởi vì người bạn học nhỏ bé ấy đã bỏ trường bỏ lớp để trở lại cùng quê hương.
Tôi đang thấy lại người. Người đứng ở bên này sông, sông mờ theo mây thấp, và tóc người bay cuống quít, và những ngón tay người giữ lấy những sợi mây mềm. Tôi đang nghe tiếng nói của người. Tôi thấy dáng dấp của người. Trong phòng lớp. Từ chiếc ghế đầu bàn. Trong thư viện. Bên này, bên kia, bàn xanh, và hồn sách vở. Trong nhà ăn, trưa đói cồn cào, mệt lả sau giờ lab, và những cọng french fries vàng ngậy giữa hai bờ môi xinh. Trong câu lạc bộ sinh viên người lạc lõng không bạn bè, đứng áp mình vào khung cửa kính, nhìn dòng Hudson. Dưới ánh đèn đường vàng vọt của con đường Sinatra, dẫn xuống phố. Gió sông thổi lạnh người, tôi thấy hai vì sao, và bờ vai gầy run rẩy. Và một đêm trên Twin Towers. Một Twin Towers đã bị bức tử trước cái thù hận ác độc của một lũ người man di mọi rợ. Một Twin Towers chỉ còn là giấc chiêm bao mà em như đứng đó như cả trăm năm trong đời tôi. Và một đêm giao thừa trên Times Square. Và cái giây phút vĩnh cửu khi chúng tôi cùng chúc tụng cho nhau những lời chúc thành thật nhất, yêu dấu nhất. Chắc là những gì mà người con gái ao ước khi nàng nhắm mắt lại, giờ đã được toại nguyện. Còn tôi, cuối cùng, vẫn là một giấc mơ.
Cánh chim đã bay về miền Nam, tìm nơi có nắng ấm. Chỉ còn lại một mình tôi. Chờ đợi ai. Chờ đợi điều gì trên bờ sông Hudson của ngày cuối năm này.
6/12/1996 - 10/2001
https://vandoanviet.blogspot.com/2017/07/em-mo.html
Truyện Trần Hoài Thư
Nhà văn Phạm Cao Hoàng vừa chuyển cho Văn Việt truyện ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư, ghi thời gian viết là từ 1996 tới 2001. Có lẽ thời gian sáu năm cần cho truyện ngắn ấy chín đỏ trong bàn tay và trái tim tác giả. Rất mơ hồ và cũng rất hiện thực, vượt thời gian và không gian cho dù vẫn có một thời điểm cụ thể, truyện ngắn này cho người đọc cảm giác đó là một phần ký ức, không phải sản phẩm của tưởng tượng, đó là cuộc sống mà mỗi ngày ta vẫn chạm vào, thường xuyên, quen thuộc như một cơn đau dịu nhẹ buồn…
Văn Việt
Với tôi, Đêm mơ của Trần Hoài Thư là một trong những truyện ngắn hay nhất ở hải ngoại trong bốn mươi năm qua. Truyện lấy bối cảnh ở New York trong những năm đầu người Việt đến Mỹ sau khi chiến tranh kết thúc. Bằng chất văn tự sự và lởi thoại như thơ, Trân Hoài Thư kể lại chuyện tình sương khoái của nhân vật xưng tôi và cô gái tên Nhàn. Câu văn hay nhất trong truyện: “Cầu chúc những người gặp nhau sẽ không bao giờ chia xa”.
Phạm Cao Hoàng, 27/7/2017
TIỂU SỬ:
Trần Hoài Thư tên thật Trần Quí Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Từ 1964-1966 là giáo sư trung học Trần Cao Vân (Quảng Tín – là một phần Quảng Nam hiện nay).
Năm 1967, nhập ngũ khóa 24 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, là sĩ quan sư đoàn 22 bộ binh rồi  làm phóng viên chiến trường. Sau 30 tháng 4 năm 1975, đi học tập cải tạo hơn 4 năm.
Trần Hoài Thư vượt biển năm 1980, đi học lại, tốt nghiệp Cử Nhân Điện Toán và Cao Học Toán Ứng Dụng. Chức vụ cuối cùng trước khi nghỉ hưu là Project Leader của công ty điện toán IBM.
Truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ viết năm 1964, đăng trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn.
Ông cùng Phạm Văn Nhàn sáng lập tạp chí Thư Quán Bản Thảo và nhà xuất bản Thư Ấn Quán. Tủ sách DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM của nhà xuất bản Thư Ấn Quán đã sưu tầm và in lại hàng trăm tác phẩm giá trị, đáng kể nhất là bộ THƠ MIỀN NAM gồm 5 tập, tổng cộng khoảng 3.500 trang và bộ VĂN MIỀN NAM 4 tập, tổng cộng khoảng 2.400 trang.
TÁC PHẨM
VĂN: Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang (tập truyện, 1968), Những Vì Sao Vĩnh Biệt (tập truyện, 1970), Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (tập truyện, 1971), Một Nơi Nào Để Nhớ (tập truyện, 1974), Ra Biển Gọi Thầm (tập truyện, 1995), Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối (tập truyện, 1997), Về Hướng Mặt Trời Lặn (tập truyện, 1998), Mặc Niệm Chiến Tranh (tùy bút), Đại đội cũ, trang sách cũ (tập truyện), Thế hệ chiến tranh (tập truyện), Đánh giặc ở Bình Định (tự truyện), Hành trình của một cổ trắng (truyện vừa), Ở một nơi trên Trường Sơn (tập truyện), Giấc mơ Giáng Sinh (tập truyện), Tản mạn văn chương (tập I).
THƠ: Thơ Trần Hoài Thư, Ngày vàng, Nhủ đời bao dung, Ô cửa, Xa xứ, Quán, Vịn vào lục bát.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét