Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

Hà Nội 21 cửa ô và Hà Nội 5 cửa ô

Hà Nội 21 cửa ô và Hà Nội 5 cửa ô
Đời nhà Nguyễn, sách Bắc thành dư địa chí soạn hồi đầu thế kỷ XIX cho biết Hà Nội có tới 21 cửa ô. Nhưng đến bây giờ hầu hết mọi người chỉ nghĩ Hà Nội có 5 cửa ô. Hỡi ôi, vật đổi sao dời, từ 21 mà sao sau chỉ còn 5? Và biết đâu đó, đến một ngày, Hà Nội sẽ chẳng còn cửa ô nào nữa…

Ô Quan Chưởng. Ảnh: Hoàng Nguyên. Tên gọi Ô Quan Chưởng bắt nguồn từ sự kiện xảy ra vào năm Tự Đức thứ 26, khi thực dân Pháp đánh thành Hà Nội (20/11/1873), một Chưởng cơ cùng một trăm chiến sĩ đã giữ thành này đến người cuối cùng. Người dân vì thế gọi cửa ô này là Ô Quan Chưởng để tưởng nhớ công lao.
Chính bài hát “Tiến về Hà Nội” của Văn Cao và bài “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi đã làm tôi luôn bị ám ảnh về các cửa ô của Hà Nội. Bài của Văn Cao thật hùng, bài của Nguyễn Đình Thi thật tráng.

Nguyễn Đình Thi viết những lời từng làm xao xuyến hàng triệu con tim (ít nhất tôi đã hát bài này thường xuyên trên môi suốt những năm học phổ thông):

Hà Nội vui sao Những cửa đầu ô Tíu tít gánh gồng Đây ô Chợ Dừa, kia ô Cầu Dền Làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm...

Còn khi nghe bài hát của Văn Cao có câu “5 cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về” tôi vẫn thường nghĩ Hà Nội chỉ có 5 cửa ô. Đó là: Ô Quan Chưởng, Ô Đống Mác, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền và Ô Cầu Giấy. Tôi đã nghĩ thế là nhiều rồi (như Hải Phòng thì cũng chỉ có “5 cầu, 4 cống, 3 cửa ô” - thơ Tố Hữu). Rồi cái thời đi học tôi cứ thường lang thang qua các cửa ô, khi vô tình lúc cố ý. Mỗi cửa ô đều để lại trong tôi những cảm xúc khác nhau. Rồi thì tôi muốn tìm hiểu…

Đầu tiên tôi hiểu rằng cửa ô là lối ra vào thành, có vọng gác, chốt chặn để kiểm soát, thu thuế, bảo vệ cuộc sống trong thành (Ô Quan Chưởng hiện nay để lại hình ảnh rõ nét, vậy thì phải chăng các cửa ô khác ngày xưa cũng như thế này?). Các cửa ô được đặt tên theo làng theo tổng. Mỗi cửa ô thời ấy có lẽ là một chiếc cổng ngày mở đêm đóng bởi mỗi phường như một làng khép kín, có cây có rào, có tuần đinh canh phòng để ngăn ngừa đạo chích và canh chừng hoả hoạn. Cụ Lê Hữu Trác trong cuốn Thượng kinh ký sự tả cái Ô Chợ Dừa thế này, xin trích ra đây để bạn đọc tham khảo về hình ảnh một cái cửa ô: “Một cái thành đất không cao lắm. Bên cạnh là một cái tường nhỏ, trên mặt tường là đường xe ngựa đi, ở mé ngoài hàng rào che kín mít. Dưới chân tường là hào sâu. Trong hào thả chông xem ra rất kiên cố. Thành có ba vọng canh, nơi nào cũng có lính sắp hàng, gươm súng sáng quắc".

Trong các thư tịch từ thời Lê trở về trước ít nhắc đến các cửa ô. Các cửa ô không đóng một nơi nhất định mà mỗi thời đều có vị trí khác nhau, tuỳ tình hình đắp lũy bố phòng. Thời Lý - Trần thành rộng phía Tây, có cửa Ô Cầu Giấy. Thời Nguyễn, thành thu hẹp về, lập Ô Thanh Bảo bên trong (nay là khu Vạn Bảo, Vạn Phúc). Sang đời nhà Nguyễn sách Bắc thành dư địa chí soạn hồi đầu thế kỷ XIX cho biết Hà Nội có tới 21 cửa ô, nhưng rất tiếc, lại không kể tên đầy đủ. Hỡi ôi, vật đổi sao dời, từ 21 mà sao sau chỉ còn 5?

Đến năm 1831 trong bản đồ Tòa thành Hà Nội của các ông Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến có ghi lại vị trí và tên của 16 cửa ô (vậy là bay đi đâu mất 5 cái): Ô Yên Hoa (nay là ngã ba đê Yên Phụ - đường Thanh Niên), Ô Yên Tĩnh (nay là ngã ba đê Yên Phụ - Cửa Bắc), Ô Thạch Khối (nay là đầu dốc Hàng Than), Ô Phúc Lâm (nay là đầu phố Hàng Đậu), Ô Thanh Hà (nay là Ô Quan Chưởng), Ô Trừng Thanh (nghe nói ở vào khoảng bên phải nhà tắm công cộng Chợ Gạo cũ, không biết cái nhà tắm đó còn không, hôm nào chắc rằng sẽ phải đi tìm lại), Ô Mỹ Lộc (nay là ngã ba đường Trần Quang Khải - Hàng Mắm), Ô Đông An (nay là ngã ba Trần Quang Khải - Hàng Thùng), Ô Tây Luông (nay là Nhà hát Lớn), Ô Nhân Hòa (nay là ngã ba Trần Quang Khải - Trần Hưng Đạo), Ô Thanh Lãng (nay là ô Đống Mác), Ô Yên Ninh (nay là ngã tư phố Huế - Đại Cồ Việt, tức Ô Cầu Dền), Ô Kim Hoa (ở ngã tư quốc lộ 1 - Đại Cồ Việt, tức Ô Đồng Lầm), Ô Thịnh Quang (nay là ngã tư Hàng Bột [Tôn Đức Thắng] - Khâm Thiên, tức Ô Chợ Dừa), Ô Thanh Bảo (nay là Bến xe Kim Mã), Ô Thụy Chương (nay là khoảng vườn hoa Tây Hồ ở đầu đường Hoàng Hoa Thám).

Thế có nghĩa là phía ngoài các cửa ô ấy đều là “nhà quê” cả (như phường Nghĩa Đô bây giờ [nơi tôi đang ở] quê của nhà văn Tô Hoài thì quê đặc chứ còn phố phường gì với ai nữa. Lại không còn thấy tên Ô Cầu Giấy đâu! Thế có nghĩa là từ cái danh sách này thì 16 cửa ô thời ấy nay chỉ còn có 4. Vì thời gian hay vì con người thời nào cũng hay “lấn chiếm”?

Tìm hiểu tiếp thì đến năm 1866 mất đi một cửa ô. Vì trong bản đồ tỉnh thành Hà Nội vẽ năm 1866 đời Tự Đức thì chỉ còn 15 cửa ô, mất đi cửa ô Nhân Hoà (nhường cho sự ra đời cái dốc Vạn Kiếp chăng?). Nhiều cửa ô lại mang tên mới: Yên Hoa thành Yên Phụ, Yên Tĩnh thành Yên Định, Thạch Khối thành Nghĩa Lập, Phúc Lâm thành Tiền Trung, Tây Luông thành Trường Long, Thanh Lãng thành Lãng Yên, Yên Ninh thành Thịnh Yên, Kim Hoa thành Kim Liên, Thịnh Quang thành Thịnh Hào. Khoảng mười lăm năm tiếp theo, cũng vẫn 15 cửa ô, nhưng Yên Định đã đổi ra Yên Ninh, Đông Hà thành Thanh Hà, Trường Long thành Cựu Lâu.

Phần lớn các cửa ô đều thông ra sông Hồng: ở phía tây có 2 cửa, phía nam có 3 cửa, ra sông Hồng có 11 cửa. Đó là vì các cửa ô chính là các cửa của thành đất bao bọc quanh kinh thành. Ra vào kinh thành tất phải qua cửa ô. Ban đêm, tại các cửa ô đều có tuần phiên canh gác, kiểm soát việc ra vào. Nhưng thời đó đường giao thông nối Thăng Long với các nơi chủ yếu là đường sông cho nên dọc sông Hồng có nhiều bến, phố xá đông đúc với nhiều hiệu buôn lớn của người Việt và người nước ngoài. Vì thế người ta phải mở nhiều cửa ô để việc đi lại được dễ dàng. Hai cửa ô Thanh Hà và Trừng Thanh rất gần nhau vì thời xưa cửa sông Tô Lịch nằm giữa hai ô này.

Hơn 100 năm sau 15 cửa ô kia đã biến thành phố xá, chỉ còn sót lại một cửa! Và trong ký ức của người dân chỉ lưu lại tên tuổi của 6 cửa ô mà phần lớn được gọi bằng tên nôm: Yên Phụ, Quan Chưởng (tức Thanh Hà), Đống Mác (tức Lãng Yên), Cầu Dền (tức Thịnh Yên), Đồng Lầm (tức Kim Liên), Chợ Dừa (tức Thịnh Hào). Có một cửa ô nữa đã đi vào ca dao - Ô Hàng Đậu, tức Phúc Lâm - nhưng nay không có ai nhắc tới nữa. Tất cả các cửa ô chỉ còn cái tên chứ chả còn cái ý nghĩa xưa.

Cái cửa ô duy nhất còn sót lại là Ô Quan Chưởng (đầu phố hàng Chiếu, ngay gần chợ Đồng Xuân). Một cửa ô duy nhất còn lại cái cổng ba cửa như cổng thành, có vọng lầu, xây bằng gạch vồ nâu đỏ, có cả tấm bia đá của Tổng đốc Hoàng Diệu cho dựng năm 1882 cấm ngặt binh lính quan nha không được sách nhiễu người dân qua lại đây vào thành. Đây vốn là cửa ô xây dựng năm 1749 thời vua Lê Hiển Tông. Quan Chưởng là cái tên nôm na để chỉ một ông Quan Chưởng coi việc ở đây. 260 năm đã trôi qua nhưng công trình vẫn được giữ gìn như xưa, đã được xếp hạng di tích lịch sử, ngày ngày dân mình vẫn qua lại buôn bán nhộn nhịp. Cửa ô này tạo cho phố phường một nét cổ kính Tràng An hàm khí “rồng thiêng”.

Tôi xin trở về với Ô Cầu Giấy, “liệt sĩ” đầu tiên trong số 20 cửa ô bảo bọc cho vua, quan và dân lành của kinh đô nước Việt đã tử nạn. Có lẽ vì là đệ nhất liệt sĩ nên “ngài” cứ luôn ám ảnh tôi, theo sát cuộc đời tôi cho đến tận bây giờ.

Ngài sinh ra trong thời Lý, hiên ngang lẫm liệt như anh hùng hảo hán, như “Cromwell the Protector” vĩ đại của Cách mạng Anh, che chắn cho tất cả ở cửa ngõ phía tây uy linh (theo thuật địa lí - phong thủy là nhằm hướng “long nhập thủ”) của kinh thành Thăng Long, trải qua suốt thời Lý, thời Trần, thời Hồ, thời Lê, thời Mạc để rồi hi sinh dưới tay triều Nguyễn. Thôi thì cũng an ủi rằng dẫu sao thì ngài cũng thọ hơn bất kì triều đại nào.

Sự hi sinh của ngài cũng thể hiện được đường lối chính sách của các triều đại. Thời Lý - Trần mở rộng kinh đô về phía tây nên mới có Ô Cầu Giấy. Đó là định hướng hoàn toàn đúng đắn về mặt phong thủy, thể hiện rõ trong sự thịnh trị của các triều đại đó. Theo môn khoa học này thì thành Thăng Long bị kẹt ở phía đông vì sông Hồng quá hung dữ. Vì thế khí đất bên bờ đông sông Hồng thuộc về suy khí, khó mà phát triển được.

Phía nam thì chỉ là đất phên dậu, xưa kia toàn đầm lầy là nơi các cụ đặt “bình phong”, “tiền án” cho kinh thành, xin đừng bàn chuyện đô hội gì ở đó. Phía đông bắc thành thì chỉ thịnh phát thương mại. Phía đông nam thì lụp xụp. Tóm lại kinh thành chỉ có thể phát triển được chủ yếu về phía tây bắc, tây và một tia về hướng tây nam. Đến thời Nguyễn đặt đô ở Huế, lại co rút hướng tây thành Thăng Long lại đã là điềm triệu cho sự suy vong và mất nước vậy.

Theo học giả Nguyễn Vinh Phúc thì Cầu Giấy và Ô Cầu Giấy cách nhau đến… 4 km!

Theo tôi, ông Nguyễn Vinh Phúc đã nhầm. Ô Thanh Bảo mới có từ đời Nguyễn. Ô Cầu Giấy có từ thời Lý ở gần Cầu Giấy (có thể nằm trên đê đường Bưởi) thì đúng hơn. Vì cũng chính ông Nguyễn Vinh Phúc đã tả công việc đắp một cổng thành từ thời Lý như sau:

Nguyên ở khu vực đầu phía đông cây cầu vốn có một cửa của một tòa thành mà bức tường phía tây chạy ven bờ trái sông Tô, từ chợ Bưởi xuống đến Cầu Giấy. Đó là tòa thành đất mà Lý Thái Tổ cho đắp từ năm 1014. Việt sử thông giám cương mục có ghi: "Năm Giáp Dần (1014) đắp thành đất Thăng Long: bốn bề xung quanh ngoài kinh thành đều sai đắp thành đất". Cái cửa phía tây này có tên là Tây Dương. Cửa Tây Dương đã đi vào lịch sử với đoạn ghi sau đây của Đại Việt sử ký toàn thư: "Năm Mậu Thân (1128), tháng giêng, ngày Kỷ Sửu, biếm chức Đại liêu ban Lý Sùng Phúc vì khi đi qua cửa thành Tây Dương, tuần lại có hỏi mà không trả lời". Đây là tòa thành mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là vòng thành Đại La hoặc vòng thành ngoài mà đến đời Hồng Đức được xây gạch và vẽ trên bản đồ.

Như vậy là ở đời nhà Lý, tại cửa thành này có lính tuần canh gác nghiêm ngặt. Khi đi qua cửa thành mà không đáp lời bọn lính ấy thì dù là quan to cũng vẫn cứ bị kỷ luật. Và do nằm đối diện với cửa thành Tây Dương đó nên chiếc cầu bắc ngang qua sông Tô thuở ấy cũng có tên cầu Tây Dương.

Phải chăng đấy chính là Ô Cầu Giấy được khai sinh từ gần 1000 năm trước? Vậy là ngài ra đời sau “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ có mấy năm đâu, có điều chắc rằng lúc đó ngài chưa mang tên là Ô Cầu Giấy (chắc là Ô Tây Dương chăng). Vì cái tên “Giấy” xuất hiện trong một sự kiện xảy ra vào tận thế kỉ XIII (1215) được ghi lại trong Việt sử lược. Sách này có nói đến một địa điểm là “Chỉ Tác hạng” tức là ngõ Làm Giấy (nằm ở đầu cầu phía tây). Còn cái tên cầu Tây Dương vẫn còn trong các sách đến tận các thế kỉ XV-XVII. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có ghi:

Ngày 22 tháng chín năm Bính Ngọ (1426) các tướng của Lê Lợi đem một vạn quân đến cầu Tây Dương để bao vây quân Minh ở thành Đông Quan.

Đến thế kỉ XVII (1679) có tấm bia “Trùng tu Tô Giang kiều bi ký” của Tiến sĩ Bùi Văn Trinh ghi như sau:

Xã Thượng Yên Quyết, thắng cảnh có cầu danh tiếng ở sông Tô. Phía đông cầu tiếp cận kinh thành văn vật, tụ hội thuyền xe sum vầy. Phía tây cầu thì xa xa là núi Tản Viên hình dáng lạ kỳ, anh linh hiển ứng. Sông Nhị vòng phía bắc, một dòng nước đi về. Miếu thần ở phía tây nam, người trong hạt được phồn thịnh. Bên cầu khách đang chén tạc chén thù, trên đường người qua, kẻ lại tấp nập. Thực là nơi ngoại ô lớn thông suốt bốn phương năm ngả trên đường thiên lý.

Văn bia cũng cho biết cầu kết cấu theo kiểu "thượng gia hạ kiều" - trên là nhà, dưới là cầu:

Cầu dài 15 gian như cánh nhạn vút qua trời thu hòa cùng non cao nước biếc, như cầu vồng ôm vòng dải Ngân Hà, một gác cao tỏa chiếu ánh hồng thịnh vượng, rực rỡ, thanh thoát. Trụ cầu vững vàng giữa dòng, đi trên ván cầu như đi trên đất bằng, trên lợp mái.

Cái tên Cầu Giấy mới xuất hiện vào thời Nguyễn. Sách Ðại Nam nhất thống chí ghi: “Cầu Giấy dài ba trượng, trên cầu có nhà lợp ngói.” Có lẽ các sử gia lúc đó cứ theo nghề làm giấy của làng mà gọi tên cầu.

Cái “ngõ Làm Giấy” chính là Kẻ Cót, tức phường Yên Hòa bây giờ. Ông Nguyễn Vinh Phúc kể:

Chuyện xưa kể rằng, ông tổ nghề giấy dó là Thái Luân từ Tàu sang đã đi suốt dọc ven sông Tô để dạy nghề. Thoạt tiên ông đến làng An Hòa - Thượng Yên Quyết toan truyền nghề cho dân. Song có người đối đãi với ông không tốt, ông bỏ đi lên vùng Bưởi, dạy nghề cho làng Hồ Khẩu, làng An Thọ, làng Đông Xã, làng Yên Thái, cuối cùng là Nghĩa Đô. Ở mỗi nơi ông dạy làm một loại giấy riêng. Làng Hồ học được cách làm giấy bản, làng Đông học được cách làm giấy quỳ tức loại giấy vừa mỏng vừa dai để dân làng Kiêu Kỵ dùng lót dát vàng quỳ. Làng Yên Thái học được cách làm giấy lệnh, tức giấy bản tốt mà khổ lại lớn để viết lệnh chỉ của triều đình. Ở Nghĩa Đô có người họ Lại học được nghề làm giấy sắc là loại giấy dùng để viết thần sắc vua ban. Loại giấy này khi xeo xong còn phải "nghè" tức là đặt trên phiến đá rồi dùng vồ đập vào giấy cho giấy được thật mịn mặt và bền. Do đó làng này có tên là làng Nghè.

Lúc này dân làng An Hòa mới thấy ông là của quý nên cử bô lão lên Bưởi xin ông bỏ qua chuyện cũ mà dạy cho dân nghề nghiệp mới này. Cũng nể tình nhưng để tránh đụng chạm đến vùng Bưởi, ông chỉ dạy dân An Hòa cách dùng những thứ dó xấu, những đầu mẩu, đầu mặt - danh từ nghề nghiệp gọi là xề - để làm ra những loại giấy xề tức thứ giấy thô chỉ dùng phất quạt, làm hàng mã và gói hàng. Và thế là từ khi có nghề này, làng Cót Thượng dần dần được gọi là làng Giấy, nhất là từ khi cái tên chữ Hán Thượng Yên Quyết được đổi ra là An Hòa thì không mấy ai nhớ đến cái gốc "Kẻ Cót" nữa. Từ đó, cái tên "làng Cót" chỉ chuyên dùng để chỉ làng Hạ Yên Quyết.

Cầu Giấy chính thuộc làng Hạ Yên Quyết mà thực ra còn có tên nôm là làng Giấy, thuộc tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai. Từ năm 1889 đời vua Thành Thái làng mới được đổi tên thành An Hòa, thuộc tổng An Hạ, huyện Hoàn Long, phủ Hoài Đức.

Người làng Giấy làm giấy quạt nổi tiếng nhất, người làng Lủ đến cất về làm quạt giấy đưa vào phố Hàng Quạt của kinh thành.

Chợ giấy họp đông vui tấp nập bên kia Cầu Giấy, năm ngày một phiên - ngày 1 và ngày 6 âm lịch; dân làng chuyên bán giấy các loại và mua nguyên liệu làm giấy về. (Nguyễn Phạm Quang, “Từ cầu Tây Dương đến Cầu Giấy”).

Dân làng Giấy có câu ca đầy tự hào và tình tứ:

Hỡi cô thắt dải lưng xanh, Có về cầu Giấy với anh thì về. 
Cầu Giấy có cây bồ đề, Có sông tắm mát, có nghề xeo can.

Sau khi “hi sinh oanh liệt” (có lẽ vào khoảng thế kỉ XVIII) khí phách Ô Cầu Giấy vẫn hùng tráng ở lại phù trì những dân đen con đỏ và đất trời Thăng Long.

Trong hai cuộc xâm lược Bắc Kỳ và Hà Nội (1873 và 1882) của thực dân Pháp Ô Cầu Giấy đầy khói lửa tang thương. Do nằm trên huyết mạch giao thông quan trọng nên Ô Cầu Giấy là điểm huyết chiến chiến lược giữa quan quân triều đình và quan Pháp. Và hai chiến thắng oanh liệt (được gọi là “Chiến thắng Ô Cầu Giấy lần thứ nhất” [21/12/1873] và “Chiến thắng Ô Cầu Giấy lần thứ hai” [1883]) đều gắn với tên tuổi của một con người - Thống đốc Trấn Bắc Đại tướng quân Hoàng Kế Viêm, như quân Pháp đã từng nhận định: “Dân chúng Bắc Hà tin vào Viêm hơn Tự Đức.”

(Người Hà Nội/Vietnam+)

http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Ha-Noi-21-cua-o-va-Ha-Noi-5-cua-o/201212/8300.vnplus

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét