Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

(2) Ba ngày ở thị trấn Cù Cưa

Ba ngày ở thị trấn Cù Cưa
Truyện ngắn Vũ Thư Hiên
Khác cụ Trưởng Giám, cụ Cần tuy cũng không còn cụ bà, con cái đều ở xa, nhưng nhà cửa ngăn nắp, vườn tược gọn gàng. Chúng tôi uống trà. Trà búp. Cái ấm chu sa đối ẩm, hai cái chén, cái nào cũng sạch bong.
Image result for thị trấn Cù Cưa
- Lão Trưởng Giám chê tôi nhát, phải không?
Tôi uống thật chậm để chọn chữ:
- Cụ là người biết nhìn trước ngó sau, cụ Trưởng nói thế.

Cụ Cần cười:

- Anh cứ nói toạc ra là lão bảo tôi sợ. Chẳng phải mình tôi, người xóm này đều thế. Thoạt kỳ thuỷ, dân chưa đông thì khác, người nọ bảo người kia, mọi người trông nhau mà ăn ở sao cho phải đạo. Sau, mỗi ngày mỗi đổi, tôn ti trật tự đâu ra đó, không sợ cũng không được. Chẳng hiểu có phải vì đông dân thêm mà sinh ra thế không? Ý tôi muốn nói: trước kia chưa có dân, chỉ có xóm giềng với nhau thì dễ, chứ có dân rồi thì ắt phải có quan, có quan rồi phải có lính, phải trình báo, phải xin xỏ, phải vi thiềng, tôn ti trật tự là thế…

Tôi không hiểu cụ khen hay cụ chê. Giọng cụ đều đều.

- Nhưng còn bầu bán thì sao?


- Có chứ, có cả. Bầu là cho có cái tiếng, chứ ở đâu chả vậy, người ta sắp đặt trước cả rồi, dân chỉ có việc nhất trí giơ tay.


Có lẽ cụ Cần đã nghĩ lại. Cụ vẫn ý tứ, tránh những chữ mạnh, nhưng tôi hiểu cụ muốn nói gì.


- Cháu dạo qua một ngày, thấy buôn bán tấp nập, phố xá đông vui… Thị trấn phát triển, tương lai lắm. Cô chủ tịch thân đưa cháu đi tham quan mấy cơ sở sản xuất, thương nghiệp, dịch vụ…


Cụ Cần nhếch mép. Mấy cái răng cửa hàm trên không còn, cái nhếch mép của cụ không ra cười mỉa, không ra mếu.


- Tin Con Nặc Nô có mà đổ thóc giống ra mà ăn.


- Cháu thấy cô ấy có vẻ tích cực lắm.


- Anh là người qua đường, làm sao biết được. Chính chúng tôi cũng còn nhầm nữa là. Con Nặc Nô ấy à, nó là con mồ côi đấy, chúng tôi, là tôi nói người xóm này, nuôi nó từ tấm bé. Gọi là con mồ côi cũng làquen miệng thôi, chứ không đúng. Nó là đứa con hoang, không cha không mẹ. Chính cô con dâu lão Trưởng Giám nhặt được nó ở đầu ngõ, bọc trong mớ giẻ. Không biết đứa trốn chúa lộn chồng nào nỡ vứt đứa con rứt ruột đẻ ra như thế? Nó lớn lên, cả xóm đùm bọc nó. Mới nghĩ rằng tre già măng mọc, nay nó trưởng thành, nó là người đứng đầu ở đây thì dân được nhờ, ăn cây nào rào cây ấy. Hoá không phải. Ăn cây táo nó rào cây soan đâu.


- Tức là cô ấy được bầu làm chủ tịch hẳn hoi?


- Bầu chứ. Chúng tôi tin nó. Như tôi vừa nói ấy. Chúng tôi đâu có biết trước rồi ra nó thành Con Nặc Nô. Mà ai có thể biết trước được cơ sự nó ra thế chứ? - cụ thở dài đánh sượt - Lúc bé nó ngoan lắm. Ai cũng yêu.


Cụ ngậm ngùi uống trà.


- Con này mà nói thì khéo vô cùng. Nó nói kiến trong lỗ phải bò ra… Phàm cái gì từ miệng nó phát ra đều hay cả, cứ gọi là ngọt như mía lùi. Nhưng khốn nạn, hay thật đấy, cơ mà chỉ hay cho nó, chứ không hay cho mình… Anh thấy dân chúng tôi có vẻ phởn phơ là anh mới thấy cái bề ngoài. Tiếng ta hay lắm. Anh có hiểu tại sao có hai chữ “dân gian” không? Phàm đã có quan thì dân phải gian mới sống được. Không gian chỉ có chết. Ấy là nói riêng với anh. Chớ viết lên báo.


Cô cháu gái của cụ hẳn được hưởng gien di truyền của ông ngoại. Trong nhóm Phá Cách cô là người cẩn thận nhất trong chữ nghĩa.


- Tôi nói thế đã là hơi nhiều rồi. Nói để anh biết, biết rồi thì để bụng. Lạng quạng chết tươi có ngày.
Cụ rủ rỉ, giọng tin cậy. Tôi rất muốn mà không dám giở sổ tay ra ghi. Tôi vốn không tin cậy trí nhớ của mình. Sang tuần trà thứ hai, cụ bảo:


- Anh về đây được Con Nặc Nô dẫn đi tham quan, dẫn đi chiêu đãi, tốt thôi. Nhưng phải coi chừng, chớ có hứa gì hết. Nó chiều anh là có ý của nó. Có khi anh còn được nó tặng quà cũng nên…


Tôi giật mình.


- Nó cho chẳng lẽ không lấy, hì hì… - không nhận thấy phản ứng của tôi, cụ nhẩn nha tiếp tục - Lấy rồi thì há miệng mắc quai.


- Thì sao?


- Anh mà không viết bài ca tụng nó, tức là ca tụng cái thị trấn Tân Sinh này này, không phải cái thị trấn Cù Cưa trước mặt anh đâu, mà là cái thị trấn dưới-sự-lãnh-đạo-của-nó, thì anh sẽ thành kẻ thù của nó, có dịp là nó xơi tái anh tắp lự, hì hì… Anh phải biết: nó quan hệ rộng lắm. Nó với tới anh chẳng khó gì.


Tôi nhớ đến cái giường nhà nàng, nhớ những giọt mồ hôi của tôi nhỏ xuống đệm, nhớ hơi thở nóng rẫy, tiếng rên rỉ, cái miệng xinh xinh mở to với dãy răng cửa không đều nhe ra trắng nhởn trong cơn cực khoái. Sống lưng tôi ớn lạnh.


- Đã có chuyện xảy ra rồi đấy. Cháu tôi nó có giới thiệu một ông nhà văn về đây, ông biết nhà văn Ngô Toản chứ?


- Cụ ấy nổi tiếng, ai mà không biết.


- Vậy, ông cụ chừng nghe thiên hạ đồn đại về Con Nặc Nô, có ý muốn gặp mặt nó, chẳng hiểu cụ có ý định viết chuyện nó hay chỉ vì tò mò. Chính tôi dẫn ông cụ tới gặp nó. Lại cũng chính cháu tôi viết thư giới thiệu, như nó giới thiệu anh. Cho nên tôi mới ngại. Con Nặc Nô tiếp ông cụ nồng nhiệt lắm, tặng ông cụ cả một xấp những bài người ta viết về nó, cả những bài nó viết nữa, chung quy cũng chỉ là những bài nó viết về nó thôi. Nó cũng dẫn ông cụ đi tham quan các cơ sở, như dẫn anh ấy, cũng chiêu đãi ông cụ, như chiêu đãi anh ấy, cũng dẫn ông ấy về nhà…


Tôi toát mồ hôi.


- Sau, mãi chẳng thấy ông cụ viết bài ca ngợi nó, thế là nó tương lên báo, báo tỉnh thôi, không phải báo Trung ương, chắc anh không đọc nên không biết. Nó chê ông ấy hết lời, bịa chuyện ông cụ xin yết kiến nó mấy lần, năn nỉ mãi nó mới tiếp, nó kể nó thay mặt dân chúng tiếp đãi, tặng quà ông ấy những gì, như thế nào, vậy mà ông cụ chẳng viết một dòng về thị trấn như ông cụ hứa, như dân chúng mong mỏi…


Không, “Con Nặc Nô” sẽ không thể nói đến món quà mà nàng cho tôi đêm qua, cho dù tôi không viết dòng nào về cái thị trấn rắc rối này.


Từ biệt cụ Cần, tôi đi tìm Con Nặc Nô. Tôi nghĩ đến công việc phải làm, nhờ nó tôi được vào biên chế nhà nước, tôi không nghĩ đến nàng. Người ta chỉ tôi đến nhà trẻ của thị trấn. Đó là một ngôi nhà quét vôi hồng, nằm ở giữa phố chính. Trong đầu tôi ong ong những lời hai ông già nói về nàng. Tôi không tin những gì họ nói là sự thật. Không phải lần đầu tôi gặp thói ghen ăn tức ở nơi những người kém may mắn trong đời. Tôi tin nàng hơn. Nàng dễ thương đấy chứ. Với tôi, nàng hồn nhiên, nàng thực thà.


Đứng trước nhà trẻ, tôi còn đang ngập ngừng không biết nên gõ cửa hay tìm nút chuông bấm thì nghe bên trong có tiếng quát tháo. Rồi cánh cửa mở tung, một cô gái lao ra, đâm sầm vào tôi. Mặt cô đỏ bừng, nhoè nhoẹt nước mắt.


Tôi ngó vào.


- Vào đây, vào đây anh! – thấy tôi, nàng vồn vã – Giới thiệu với anh, mấy em nuôi dạy trẻ điển hình tiên tiến ở thị trấn chúng em. Còn anh đây là đồng chí nhà báo ở trung ương về lấy tài liệu.


Mấy cô nuôi dạy trẻ lí nhí đứng trước mặt nàng ấp úng chào tôi. Mặt họ nhợt nhạt, sợ hãi, nặng chịch, mắt ướt long lanh. Đủ vẻ. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Điều rõ ràng là họ không phải người quát tháo.


Nàng dẫn tôi ra sân. Đàn trẻ ăn cháo sáng. Thấy nàng chúng đồng loạt ngừng ăn: “Chúng cháu chào cô ạ!”.


- Các cháu ăn có no không? – nàng véo von.


- Thưa cô có ạ! – lũ trẻ đồng thanh kêu lên.


- Cháo có ngon không?


- Thưa cô có ạ!


Chúng không chào tôi. Chúng không nhìn đến tôi. Chúng không thấy tôi. Tôi chẳng là cái gì. Chúng đã được huấn luyện. Chúng chào các cô, các chức vụ, không chào khách.


Nàng sà vào lũ trẻ, ẵm một đứa lên, thơm đánh chụt. Nàng chìa nó cho tôi.


- Anh xem, con bé có xinh không?


Tôi chưa kịp đón lấy nó thì con bé đã giãy ra khỏi tay nàng, tụt xuống đất, chạy lại chỗ cô giáo đang cầm thìa. Nó không cần ai khen. Nó cần cháo.


Nàng nháy mắt với tôi:


- Nhà trẻ này là niềm tự hào của thị trấn đấy. Đã có nhiều báo viết về nó.


- Thế thì tốt, các báo đã viết rồi thì anh chẳng cần phải viết nữa.


- Viết chứ. Thêm một bài nữa càng hay. Nhất là bài của anh.


Nàng vuốt ve lòng tự ái của tôi. Nhưng tôi không cảm động. Tôi biết nàng chưa từng đọc tôi.


- Để em đưa anh một báo cáo về nhà trẻ. Coi như anh đã đến, đã quan sát, đã phỏng vấn. Cứ dựa theo báo cáo mà viết là xong.


- Anh cần báo cáo về mọi mặt. Không phải chỉ nhà trẻ.


- Tham thế! Để em lệnh cho cậu thư ký chuẩn bị cho anh. Bây giờ ta tiếp tục tham quan thực địa những gì nhà báo muốn biết nhá.


Chúng tôi đi dọc phố chính. Nàng than thở:


- Tất bật cả ngày không hết việc, anh thấy đấy. Mấy con nuôi dạy trẻ anh vừa gặp ấy là một lũ mất dạy.


- Em vừa nói họ là điển hình tiên tiến cơ mà.


- Thì phải đôn chúng nó lên mà đoạt cờ luân lưu của tỉnh chứ. – mặt nàng ửng đỏ – Nhưng tức không chịu được. Bảo một đàng, chúng nó làm một nẻo. Chỉ được cái giỏi đòi hỏi.


- Họ đòi hỏi gì vậy?


- Chúng nó đòi may quần áo mới cho lũ trẻ con. Anh chưa nhìn thấy lũ trẻ mặc quần áo đẹp đâu. Mẫu do em vẽ đấy. Tuyệt cú mèo. Nhà trẻ Hoa Hồng trên Hà Nội cũng chẳng ăn đứt. Nhưng quần áo đẹp ấy là để dành cho ngày lễ ngày hội thôi, để chưng ra thôi. Giết ai ra tiền mà ngày nào cũng cho lũ trẻ diện bảnh? Mấy con quái ấy láo lắm, chúng nó bảo ảnh chụp nhà trẻ đã được đưa lên báo rồi, mọi người đọc báo đã tưởng là thế rồi, thì phải đồng loạt cho lũ trẻ mặc hàng ngày, kẻo mang tiếng bịp bợm.


- Họ có lý đấy chứ.


- Lý cái nỗi gì, em hỏi anh? Anh tưởng người ta không biết mình bịp à? Người ta biết quá đi chứ. Ở chỗ người ta, người ta cũng làm y như vậy. Báo của anh cũng thế. Anh đưa lên báo những mặt tích cực của đời sống hay đưa mặt tiêu cực? Ở trên muốn thế, ở dưới cũng muốn thế. Không phải bịp mà là tuyên truyền. Tuyên truyền thì phải có mục đích. Tuyên truyền cho nhau, tức thị động viên nhau, thì có gì xấu? Khi tỉnh muốn thị trấn mình khoe thành tích nuôi con khoẻ dạy con ngoan với phái đoàn tỉnh bạn đến tham quan, nói ví thử như thế, thì mình phải làm sao cho tỉnh vừa lòng, phải cho lũ trẻ mặc quần áo đẹp, bữa ăn phải ngon…


Lập luận của nàng khó mà cãi lại. Vừa lý giải vừa biện bạch, rất thấu tình đạt lý. Nếu sự lừa dối được tiến hành trong sự đồng thuận của kẻ bịp bợm với người bị bịp bợm thì sự lừa dối lẫn nhau còn có nghĩa gì. Nó trở thành một trò chơi vui vẻ với những luật lệ được cả hai bên tham gia thừa nhận. Vậy thì cứ chơi đi, chơi cho hăng vào, nó vô hại.


Nàng giật tay áo tôi:


- Anh nghĩ cái gì thế? Anh không đồng ý à? Cũng có lúc bọn em phải để bọn trẻ ăn mặc khác, lam lũ, nhem nhuốc. Ấy là khi có phái đoàn quốc tế đến xem để họ giúp mình lập dự án xoá đói giảm nghèo. Lúc ấy mà cho trẻ con diện bảnh thì có mà ăn cám.


Nàng cười khanh khách:


- Thị trấn là một nước nhỏ mà anh. Nó có chính trị của nó.


Nhìn thấy một đám đông tụ họp ở đàng xa, nàng chau mày:


- Cái gì thế kia không biết? Anh chờ em ở uỷ ban nhé ! Em sẽ đưa anh đi ăn.


Tôi sẽ đi ăn một mình. Tôi không thích ăn không của người khác. Tôi biết nàng không trả tiền hai bữa ăn hôm trước. Tôi có hai con mắt sau gáy để biết rằng hai ông chủ đều không hài lòng về việc buộc lòng phải thết đãi một thằng cha căng chú kiết nào đó là khách của uỷ ban, và họ có trách nhiệm không được tính tiền.


Tôi không về uỷ ban trước. Tôi đứng lại chờ nàng. Từ xa, tôi thấy nàng đến trước đám đông. Quanh nàng là mấy người hoa chân múa tay sừng sộ và những người đi theo những người ấy. Có vẻ họ phản đối cái gì đó, thỉnh cầu cái gì đó. Những người sừng sộ phản đối, những người đi theo thỉnh cầu. Người thỉnh cầu bao giờ cũng đông hơn người phản đối.


Nàng quay lại chỗ tôi đứng.


- Anh đợi em à?


Đi sát nàng, nhưng sau một bước là hai anh công an. Tôi nghe nàng dặn:


- Làm một báo cáo ngay về vụ này. Không thể để chúng nó phản đối có tổ chức như vậy được. Nguy lắm. Phải có bàn tay địch khuấy động chúng nó mới dám thế.


- Đúng vậy – một anh công an đứng tuổi nói - Để yên không được, chúng nó là thế, được đằng chân lân đằng đầu.


- Nhớ lập ngay hồ sơ mấy thằng cầm đầu. Phải dằn mặt chúng nó, bằng cách nào tốt nhất thì làm.


- Rõ, thưa đồng chí. – anh công an trẻ nói.


Trên đường về uỷ ban nàng giải thích:


- Chúng nó chống lại mức thuế do nhà nước quy định, chống luôn phần phụ thu của thị trấn. Anh thấy em có vất vả không?


- Vất thật.


- Không phải lúc nào chúng nó cũng dám chống đâu. Chống hàng ngày thế có mà chết. Chẳng qua chúng nó thấy dân tỉnh bên kéo đàn kéo lũ kêu ca thuế nông nghiệp cao quá, đòi kiện vụ đất đai bị giải toả đền bù không thích đáng, mấy ông ở trên về thanh tra trót dại hứa hươu hứa vượn rằng sẽ giải quyết, thế là dân bên này chúng nó bắt chước. Cái hoạ này là hoạ dây chuyền. Phải kiên quyết bóp chết ngay lập tức, từ trong trứng.


Con Nặc Nô có đầy đủ tư chất một chính trị gia, tôi nghĩ. Nàng còn đi xa. Nàng biết cai trị. Nàng biết trấn áp.


Đêm ấy, tôi ở lại nhà nàng. Tôi không đủ sức kháng cự bất cứ mệnh lệnh nào của nàng. Mặc dầu lòng đã dặn lòng là thôi, không đi ăn với nàng nữa, ăn như thế là ăn bám, bởi vì có nàng đến ăn là người ta không lấy tiền, mà không lấy tiền thì họ tiếc, tôi biết chắc như thế, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn đi theo nàng để khen món chân gấu hầm rượu bách thảo là tuyệt diệu, dê rừng nướng vỉ là không chê vào đâu được…


Chúng tôi lại nằm với nhau trên cái giường quen thuộc. Đêm ở vùng thượng du lạnh. Trong chăn ấm tôi ôm tấm thân nóng hổi của nàng vào lòng. Nàng quặp chặt lấy tôi. Chúng tôi lại vật lộn. Trong cơn mê, tôi rên lên:


- Em yêu của anh! Em tuyệt vời của anh.


Nàng cũng rên cùng với tôi, nhưng không nói gì lúc ấy. Nàng không đuổi tôi về như đêm trước. Nhưng tang tảng sáng, nàng đánh thức tôi dậy:


- Bây giờ anh phải đi. Nhớ rẽ vào con đường nhỏ bên tay phải ấy, chỗ không có nhà cửa gì hết.
Nàng pha trà cho tôi uống, chờ tôi tỉnh ngủ.


- Lúc chúng mình gần nhau, anh nói cái gì ấy nhỉ?


- Anh gọi em: em yêu của anh!


Nàng nhìn vào mắt tôi, cái nhìn lạnh lẽo:


- Đừng bao giờ gọi như thế nhá! Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!


- Gọi thế thì có sao? Chúng mình đã là của nhau mà…


- Một lúc thôi. Một giây lát. – nàng đứng lên - Một cuộc trao đổi sòng phẳng của hai đồng minh giai đoạn. Thế là đủ, đồng chí ạ.


Bước ra cửa, tôi toan ôm lấy nàng lần nữa thì nàng gạt phắt tôi ra.


Ngày thứ ba


Tai hoạ nào cũng đến một cách bất ngờ.


Trời đổ mưa to. Hôm sau, tôi đội vải mưa lướt thướt ôm chồng tài liệu mà cậu thư ký uỷ ban trao cho, chạy về nhà cụ Cần. Tôi kiếm một chỗ ngồi không bị dột, đọc chăm chú, ghi chép cẩn thận, biết rằng những báo cáo có chữ ký của nàng là cái nằm trong trò chơi đã được các bên tham gia đồng thuận. Muốn hay không, tôi cũng là người tham gia trò chơi, tôi cũng phải tuân thủ luật chơi. Ông chủ nhiệm của tôi là người nghiêm khắc, ông ấy không tha thứ nếu tôi vi phạm cái luật bất thành văn nọ của cả hệ thống.


Nhưng cụ Cần lại không chịu nghĩ như thế. Cụ là người đứng đắn. Cụ không thích tham gia trò chơi. Tôi hiểu ra điều đó khi cụ bỏ đi cả ngày sau khi đã nấu cơm cho tôi ăn trưa một mình để buổi chiều trở về với cụ Trưởng Giám. Tôi ngỡ ngàng. Tôi cứ tưởng hai người không ưa nhau. Tôi nhầm, không ưa thì không ưa, thậm chí mạt sát nhau, nhưng họ cùng đứng chung một chỗ trong cuộc vật lộn với Con Nặc Nô.


Hai cụ trao cho tôi một tập giấy.


- Đây là đơn của dân chúng tôi tố cáo những sai phạm của chính quyền thị trấn. Chúng tôi nhờ anh chuyển tận tay cấp trên. Dân chúng tôi oan ức nhiều lắm, mà không biết kêu vào đâu. Anh thấy làm thế nào là tốt thì làm giùm. Trước nay chúng tôi gửi đơn đi thì nó bao giờ cũng quay lại chỗ cũ, chính những người chúng tôi kiện lại nhận được để xử lý chúng tôi. Chán mớ đời.


Chúng tôi có một bữa tiệc chia tay do cụ Cần thu xếp để chia tay tôi. Trong tiếng mưa rơi sầm sập, trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu, ba người lẳng lặng ăn bữa tiệc có cá kho mặn với dưa khoai nước. Tôi buồn. Tôi không biết nói gì với hai cụ. Hai cụ tin ở trò chơi của mình. Nó kKhác với trò chơi của Con Nặc Nô và đồng bọn., hai cụ, và tất nhiên, những người dân cùng với hai cụ, cũng có trò chơi của họ. Tôi vướng vào đang chơi trò chơi kia rồi, làm sao tham gia cùng lúc chơi trò này?


Tôi miễn cưỡng nhận sự uỷ thác của họ. Tôi chưa biết rồi mình sẽ phải làm thế nào với tập đơn từ này. Tôi đã giở qua để biết trong đó có gì. Hệt như mình được xem bản âm một tấm hình mà mình quen nhìn bản dương. Tôi tự nhủ sẽ cố tìm ai đó là người sẽ xem xét những lá đơn này bằng con mắt khác. Việc này lành ít dữ nhiều. Nhưng tôi sẽ tìm. Có điều không tin sẽ gặp được những người can đảm dám rời bỏ trò chơi mà họ đang chơi.


Bữa tiệc kéo dài tới khuya. Cụ Trưởng Giám quyết định ngủ lại nhà cụ Cần. Cụ cũng có một mình, ngủ đâu chẳng được.


Chúng tôi đang mải chuyện thì trong tiếng mưa có tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Như tiếng cối xay thóc. Như tiếng sấm rền. Chưa biết là cái gì thì nó đã biến thành một tiếng ồn kinh thiên động địa.


Cụ Cần không nghe thấy, nhưng nhìn nét mặt hốt hoảng của cụ Trưởng Giám thì cụ hiểu có cái gì đó bất thường đang xảy ra.


- Cái gì vậy, cái gì vậy? - cụ đứng phắt lên.


- Nguyên xem nào. – cụ Trưởng Giám thần mặt ra, lắng nghe – Thôi chết rồi, vỡ đập, các ông ơi!


- Xóm mình ở đất cao, có vỡ đập cũng không sao đâu, đừng lo. - cụ Cần nói.


Cụ nói ở thượng nguồn có một cái đập ngăn nước cho hồ chứa phục vụ dự án thuỷ điện, tạm thời dùng để nuôi cá. Con Nặc Nô có phần hùn với các quan đầu tỉnh trong công trình này. Vụ đắp đập làm cho nhiều làng ở dưới nguồn bất bình. Người ta nói thế nào rồi cũng có ngày đập bị phá.


- Nhà Con Nặc Nô ở ngay bên bờ suối. - cụ Trưởng Giám bỗng cuống quýt – Nước cuốn băng nhà nó mất.


Cả hai cụ xăng xái đập nứa, châm lửa. Cả hai, mỗi người một bó, đội mưa đi phăng phăng về hướng con suối. Trong cơn hốt hoảng hai cụ không nhớ đến tôi. Tôi lẽo đẽo theo họ. Không thể hình dung được hai con người vừa mới hết lời nguyền rủa Con Nặc Nô, giờ lại hớt hải đi cứu nàng.


Nhà cụ Cần ở trên chỗ đất cao nhất của thị trấn. Chúng tôi ra khỏi nhà thì đã thấy có rất nhiều đuốc đi về cùng một hướng. Nước mưa rơi và đuốc xèo xèo.


- Tôi đã bảo con bé: không được làm nhà gần suối như thế, nó không thèm nghe tôi.


Cụ Trưởng Giám cằn nhằn, cụ đi lật đật, chốc chốc lại vấp phải những mô đất.


- Ai mà bảo được nó. Nó cứ tưởng nó là giỏi, nó là nhất. Bây giờ thì biết thân nhá! - cụ Cần nói.


- Lạy trời cho nó tai qua nạn khỏi. - cụ Trưởng Giám thì thầm.


- Cái nhà thì chắc chắn sập rồi. - cụ Cần nói - Nước đổ về mạnh như thế, đến lô cốt cũng phải bung. Không biết nó có chạy kịp không?


- Chạy mà không kịp thì chắc chết quá.


Khi chúng tôi đến được gần nhà nàng thì quanh đấy đã có cả một rừng đuốc nhấp nhô. Mưa đã ngớt.


Ngoài nhà nàng ở bên suối, không nhà nào làm ở chỗ nguy hiểm ấy cả. Dân cả thị trấn túm tụm ở mé nước. Con suối nhỏ bé đã trở thành dòng sông hung hãn. Trên mặt nước nhấp nhô những gốc cây bật rễ.


Người ta ồn ào:


- Nhà sập hẳn rồi. Nhưng chưa bị trôi hẳn. Có ai dám ra đó xem còn người không?


- Ai dám ra bây giờ? Nhìn kìa, nước cuồn cuộn thế kia.


- Có ai mang theo thừng không? Buộc vào mình mà bơi ra đấy xem.


- Thừng có đây, cơ mà ngắn lắm.


Nói thì nói chứ chẳng ai dám ra. Trong ánh đuốc bập bùng tôi nhìn thấy một mảng tường trăng trắng. Mái nhà đã rơi xuống nước, không còn dấu tích. Nhưng cái mảng tường kia thì không nhúc nhích, nước không đủ sức cuốn nó đi, hoặc nó còn bám được vào nền bởi một cái cột có cốt thép. Có lẽ đó là mảng tường phòng ngủ, nơi tôi đã qua đêm.


- Kia, ở chỗ cái cây đổ có cái gì như hình người kia kìa.


- Đâu? Đâu?


- Kia đấy thây.


- Cái áo chứ người đâu mà người.


- Không phải cái áo, người thật. Không nhìn thấy tóc vật vờ kia à?


Đám đông chú mục nhìn rồi đồng loạt kêu lên.


- Đúng! Đúng người thật rồi.


- Chỗ ấy thì ra được đấy. Có ai chịu ra không?


- May chăng người còn sống.


Một người đàn ông lực lưỡng chẳng nói chẳng rằng quăng bó đuốc xuống đất, buộc sợi thừng quanh bụng, lao ra. Thấy thừng ngắn, những chàng trai nắm lấy tay nhau làm thành một chuỗi người cho sợi thừng dài thêm.


- Cô chủ tịch! – người đàn ông kêu lên.


Người đàn ông chống chọi với dòng nước để gỡ thân người mắc vào cây. Lục đục một lát mới gỡ người ấy ra được, ông ta bơi ngược lại với sự giúp sức của những cánh tay nối dài.


- Liệu còn sống không? – mọi người hỏi vọng ra.


- Không biết nữa. – người đàn ông đáp - Lạnh ngắt rồi.


- Nhanh lên. Có khi còn kịp.


Nàng được đưa lên bờ. Đưa tay gần mũi thấy không còn thở. Người đàn ông vác nàng lên vai chạy mấy vòng rồi đặt xuống. Không thấy ộc nước ra. Những bó đuốc quây lại làm thành một vòng lửa sưởi ấm cho nàng. Nhưng những phút dài vô tận trôi qua. Nàng không tỉnh lại.


- Xong rồi.


- Vô phương.


Nàng nằm đấy, lạnh giá và hững hờ. Giống như lúc nàng bảo tôi:


- Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!


- Hức! Hức!


Bên cạnh tôi cụ Trưởng Giám bật khóc. Tiếng nức nở của cụ lan nhanh trong đám đông. Những người đàn bà khóc theo cụ. Những người đàn ông mím môi, không nói gì, mặt lầm lì.


Một người nào đó tiến đến bên nàng, lấy cái khăn tay phủ lên mặt nàng. Tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Thế là vĩnh viễn tôi không còn thấy mặt nàng nữa, gương mặt lúc nồng nàn lúc lạnh nhạt, như một dấu hỏi cho câu trả lời không bao giờ có.


Cụ Cần ôm lấy cụ Trưởng Giám dìu đi:


- Thôi cụ, nó đã chết rồi, có khóc có thương cũng vô ích. Chúng ta đã có lúc yêu mến nó lắm chứ, có phải lúc nào cũng ghét bỏ nó đâu.


Hai ông già bá vào vai nhau mà đi. Tôi cầm bó đuốc đi sau, giơ cao cho hai cụ thấy đường. Tôi nghe cụ Trưởng Giám nói với cụ Cần trong tiếng nức nở:


- Tôi khóc là vì tôi đã không kịp làm một việc cho cháu.

- Việc gì cơ? Hả cụ? Việc gì?

Cụ Trưởng Giám lặng đi một lát.

Rồi nói:

- Tôi chưa kịp nói với nó rằng nhà văn Ngô Toản chính là cha đẻ của nó. Cụ ấy cũng sau chuyến đi về đây mới biết. Cụ ấy cậy tôi nói cho nó biết. Không kịp rồi.

Vũ Thư Hiên

(FB Vũ Thư Hiên)

Vũ Thư Hiên (18 tháng 10 năm 1933) là nhà văn Việt Nam, còn có bút danh là Kim Ân, từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu. Ông là con trai của Vũ Đình Huỳnh - bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.[1] trong thời gian dài, sau làm Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại giao, vụ trưởng trong Ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Ông là một trong những nhân vật của Vụ án Xét lại Chống Đảng. Năm 1997, hồi ký Đêm giữa ban ngày của ông được xuất bản, trong đó ông tiết lộ một số bí mật của vụ án này, lên án xã hội theo mô hình cộng sản, cuốn sách gây dư luận lớn trong cộng đồng người Việt.
Vũ Thư Hiên sinh ngày 18 tháng 10 năm 1933 tại Hà Nội, cha là Vũ Ðình Huỳnh và mẹ là Phạm Thị Tề đều là thành viên của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tiền thân của Ðảng Cộng sản Ðông Dương.
Ông thuở nhỏ đi học, hay vào Phủ chủ tịch chơi, được Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu mến, hay nhờ những việc lặt vặt.
Năm 1946, đi ca hát, đóng kịch trong một đội Tuyên truyền xung phong.
Năm 1949, đi bộ đội.
Năm 1953, công tác trong lĩnh vực điện ảnh.
Từ 1955 đến 1958, đi học viết kịch bản điện ảnh tại Liên Xô.
Năm 1959, làm việc cho Xưởng phim Việt Nam tại Hà Nội.
Năm 1960, làm biên tập viên và phóng viên Báo Ảnh Việt Nam.
Từ năm 1967 đến 1976, trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, ông bị chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bí mật bắt và giam cầm sau khi đã bắt cha ông (Vũ Ðình Huỳnh) 2 tháng trước đó. Công an chìm bắt giữ ông lên ôtô và đưa về nhà tù Hỏa Lò ngay trong lúc ông đang đạp xe trên phố Hà Nội. Mãi về sau gia đình ông mới hay tin. Ông bị giam 9 năm, trong đó bị giam trong xà lim cá nhân bốn năm rưỡi, qua các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Chính quyền thả ông không án cũng như không xét xử. Ra tù năm 1976, nhưng còn bị quản thúc bằng lệnh miệng của nhà cầm quyền mãi cho tới mùa thu năm 1980 mới được phép vào Nam.
Năm 1977, làm công nhân cao su.
Năm 1979, làm kỹ thuật hóa.
Năm 1989, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1991, làm kinh doanh.
Năm 1993, ông qua Nga với tư cách phiên dịch cho công ty xuất nhập khẩu Vũng Tàu-Côn Đảo VIECO (hợp tác với tổ hợp Minh Phụng) rồi ở lại làm đại diện cho công ty ở Moskva. Tại đây ông bắt đầu viết cuốn hồi ký Đêm giữa ban ngày về chín năm bị giam cầm, trong đó ông muốn chia sẻ với người đọc những điều suy ngẫm về mô hình nhà nước chuyên chính vô sản.
Cuối năm 1995, sau một vụ tấn công dàn dựng của mật vụ VN, ông thấy không thể ở Moskva lâu hơn nữa, nên tìm cách qua Ba Lan. Ðến cuối năm 1996, sau một chuyến đi Paris, trở về Ba Lan ông được mật báo về tình hình nguy hiểm có thể xảy ra cho ông nếu nấn ná ở lại nước này để hoàn thành cuốn hồi ký[cần dẫn nguồn]. Do đó ông quyết định qua tỵ nạn tại Pháp. Tại đây, ông đã hoàn thành tập hồi ký Đêm giữa ban ngày.
Năm 1997, xuất bản hồi ký Đêm giữa ban ngày tại Hoa Kỳ vào tháng 4.
Ông ở Strassbourg (Pháp) 1 năm, Bern (Thuỵ Sĩ) 1 năm, Đức 2 năm (2000-2001) sau khi đến Pháp theo lời mời của International Parliament of Writers, German PEN Club và Uỷ ban Nhân quyền thành phố Nuremberg[2]
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Th%C6%B0_Hi%C3%AAn

1 nhận xét: