Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

(1) Ba ngày ở thị trấn Cù Cưa

Ba ngày ở thị trấn Cù Cưa
Truyện ngắn Vũ Thư Hiên
- Anh muốn hỏi chuyện Cù Cưa, hử? – đôi mắt mờ đục và bất động hướng về tôi, ông già ghé sát vào mặt tôi để nghe cho rõ câu hỏi – Nhưng cụ thể là chuyện gì chứ?
- Dạ, chả là cháu phải viết một bài về thị trấn này.
Ông già suy nghĩ.
- Là nhà báo hử?
- Vâng.
- Ầy à…, nhà báo… - cụ Cần im lặng một lát; rồi gãi đầu - Cái ấy thì… thế này: nói thật, tôi không rành, không dám nói. Anh hỏi uỷ ban ấy, họ có trách nhiệm. Hay là… thế này: anh tìm lão Trưởng Giám. Người ở đây lâu nhất là lão ấy. Tôi mới có ba chục năm. Kể như mới. Tôi chẳng biết được bao nhiêu đâu.

Một cây bút nữ nổi tiếng trong nhóm Phá Cách giới thiệu ông, là ông ngoại của cô với tôi. Cổ nhân dạy: đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ, có người để hỏi là tuyệt rồi. Nhưng tôi không may - ông già mà tôi đặt nhiều hi vọng vào đấy lại tiếp tôi không nhiệt tình.

- Cháu nó quen anh thế nào?

Tôi vội trình bày. Cô cháu cụ thỉnh thoảng có thơ đăng trên tờ báo của chúng tôi. Quan hệ cộng tác viên với toà soạn, chỉ có vậy.

Cụ Cần dửng dưng nghe, không tỏ thái độ. Nhưng cái sự không tỏ thái độ ấy là thái độ rõ ràng - cụ không hài lòng về sự giới thiệu của cô cháu gái. Tôi đoán cụ còn không hài lòng về hoạt động của chính cô cháu nữa kia. Nhóm Phá Cách của cô tên tuổi ầm ĩ do hăng hái tấn công vào mọi loại bút pháp của các nhà văn nhà thơ quá cố và chưa quá cố mà họ cho là cổ hủ. Tôi thưa với cụ: nhóm này không dại, có thể nói là khôn nữa - họ biết tránh né những chỗ cần tránh né. 

- Ông em biết mọi chuyện ở Cù Cưa – cô cháu cụ khoe - Ngồi một chỗ mà cụ thấy hết, biết hết. Cấm cái gì lọt qua mắt cụ.

- Tính tôi không thích rắc rối. – cụ Cần thủng thẳng – Ở đây nhiều đứa thối mồm. Mà ở đâu chẳng vậy, có phải không ạ? Phàm chuyện gì đưa lên báo là y như rằng thiên hạ nhao nhao bình phẩm. Phải không sao, chệch một cái là y như rằng lôi thôi, chờ được vạ thì má đã xưng, chẳng phải đầu cũng phải tai.


Cụ nói phải. Rặt những điều ông cha đã rút tỉa trong cách xử sự với đời. Đầu cụ lơ thơ mấy sợi tóc, tai cụ nghễnh ngãng, cả hai thứ đều mỏng manh, bất cứ va chạm nhỏ nào cũng gây ra hư hỏng.


- Nhưng cháu nó đã giới thiệu anh thì có việc gì cần đến tôi, anh cứ lại. Mà này, chớ ở khách sạn làm gì cho tốn tiền. Tối cứ về đây, có mình tôi thôi. – cụ lầu bầu – Chúng nó đến là vớ vẩn, ở chốn này làm gì có khách sạn, mỗn cái nhà trọ chết tiệt, cơ mà người ta cứ thích nói vống lên, cho sướng con ráy.


Ngày thứ nhất


Tìm cụ Trưởng Giám không khó. Đó là một túp lều ở đầu thị trấn, cách xa những ngôi nhà tân thời, bên một bãi rác. Người đầu tiên đặt nền móng cho cái thị trấn cận biên sầm uất đáp lời hỏi thăm của tôi bằng một tràng ho khan.


- Đẩy cửa mà vào.


Cánh cửa bằng nứa ken, méo xẹo, xệ xuống đất. Muốn vào trong nhà khách phải nâng nó lên bằng hai tay rồi đẩy mạnh về phía trước. Nó kêu kèn kẹt.


Một ông già thấp tè, lưng còng, xương xẩu, còn điếc hơn cả ông già chỉ cho tôi đến hỏi thăm. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, rõ ràng thế - tuềnh toàng, ngập ngụa. Có mùi mốc và mùi chuột chù.


Cụ Trưởng Giám ngồi chồm hổm trên giường, khoác chăn dạ, mặt quắt queo, sáng quắc một cặp mắt nhìn ra cửa, tức là chỗ có cái ô sáng méo mó hình chữ nhật:


– Nhà báo hử? Vào đây, vào đây. Đứa nào chỉ cho nhà anh đến tìm ta? Lại lão Cần, phải không?


- Dạ, phải.


- Lão ấy khôn như rận. Lão khôn từ lúc còn trẻ kia, anh ạ, càng già càng khôn, càng già càng nhát. Lão biết nhiều lắm đấy, còn nhiều hơn ta kia, nhưng lão không dám mở miệng nói điều gì. Ta thì ta cóc sợ thằng nào con nào hết. Nhà báo cứ việc hỏi. Hỏi cái gì cũng được.


Tôi đứng giữa nhà, trình bày mục đích gặp cụ. Cù Cưa nổi tiếng, cần một phóng sự.


- Thế thì ngồi xuống đây đã, chuyện dài đấy. Nghe rồi ghi, này, đã ghi thì ghi cho đúng con mẹ nó vào đấy nhá.


- Dạ.


- Ghi đi, rằng ta, chính cái lão Trưởng Giám này này, nói thế đấy: chúng nó, tuốt tuột, rặt một lũ vô ơn.


Cụ không kể, cụ chửi.


- Chúng nó là ai, thưa cụ?


- Còn đứa nào vào đấy nữa – là cái bọn đang ngồi trên đầu trên cổ cái xóm này chứ ai.


Bằng ngón trỏ cong queo cụ Trưởng Giám chỉ ra ngoài cửa. Rồi vừa khò khè nguyền rủa vừa chỉ cho tôi chỗ để ấm nước vối, bảo tôi rót lấy mà uống. Nước nguội tanh trong giỏ.


- Ở đây, cụ là người khai sơn phá thạch, cụ Cần bảo thế…


- Thì còn đứa chó nào vào đấy nữa.


Cụ Trưởng Giám ưỡn bộ ngực lép kẹp trong dáng tự hào.


- Nhưng lão Cần không kể gì hết, đúng không? Thế đấy, ai hỏi chuyện Cù Cưa là lão đùn đẩy, lão sợ đụng chạm. Ta thì không. Nói cho phải lẽ, trước ta cũng như mọi người, cũng sợ. Giờ ta cóc sợ nữa.
Sổ tay đặt trên đùi, tôi ngồi trên chõng, bên cạnh cụ, hí hoáy ghi.


Cụ trưởng Giám chửi một hồi rồi thôi, cụ mệt. Tôi mường tượng cái xóm nhỏ đìu hiu nửa thế kỷ trước – cái xóm tí tẹo với dăm nóc tranh, gọi là xóm còn không đáng, đừng nói làng. Người đàn ông già ngồi bên tôi lúc ấy là một anh bộ đội, thời ấy người ta gọi là “đi làm cách mạng”. Duyên trời, cụ gặp cụ bà ở vùng này. Vất vả lắm họ mới cưới được nhau.


- Kỷ luật trong quân ngũ ngày ấy nghiêm lắm: luyến ái - cấm, hủ hoá – kỷ luật. Không như bây giờ.


- Tức là trước kia tốt hơn?


- Tốt chó gì mà tốt.


- Hai cụ vẫn cứ lấy nhau?


- Chứ sao.


Cụ không nói vì lẽ gì cụ không ở bộ đội nữa. Có thể đoán là cụ bị thương, có thể cụ bị sốt rét nặng không đủ sức ở lại đơn vị chiến đấu, hoặc cụ nại ra một cớ gì để không ra chiến trường nữa. Hoặc tệ hơn, cụ bị kỷ luật, bị đuổi khỏi quân ngũ vì “hủ hoá” với người sau này là cụ bà. Trong câu chuyện cụ lờ đi những chi tiết ấy, những chi tiết rất đáng để biết, cho một truyện ngắn nhiều hơn cho một bài báo. Bù vào đó cụ dẫn tích bằng giọng hào hứng, với những chi tiết huyền thoại, chuyện cụ đã dựng nên nóc nhà đầu tiên ở đây như thế nào. Bây giờ cái chỗ cụ dựng túp lều đầu tiên đã là một thị trấn, được nhà nước thừa nhận, bằng văn bản hẳn hoi, được đăng trên công báo. Có đèn điện, có nước máy, có quan có dân, có trộm có đĩ, có xì ke ma tuý, có công an vận cảnh phục hoành tráng đi lại, có xe cảnh sát giao thông hú còi ầm ĩ, có sòng bạc nhởn nhơ, có đủ thứ, không là thị trấn còn là cái gì. Có hai xã gần, một ở trên đường, một trong rừng. Theo lệ thường, nó phải được gọi là Xóm Trại, xóm của dân ngụ cư, thuộc một trong hai xã kia.


- Tại sao nó lại có tên Cù Cưa, thưa cụ?


- Cái ấy có tích của nó. Nhẩn nha rồi ta kể.


Trên con đường xuyên sơn được Nhật làm trong đại chiến, hai bên toàn rừng với đồi tranh, bỗng chồi ra một rẻo đất bằng phẳng, sim mua lúp xúp. Nó lại ở sát giao lộ của con đường tạm, trải đá, với tỉnh lộ trải nhựa do Pháp xây dựng. Thoạt đầu, trên rẻo đất hoang mọc lên một quán nước tự giác. Chủ quán chính là cụ Trưởng Giám bây giờ.


- Tức thị, cụ sống bằng buôn bán?


- Xì, buôn bán gì. Tôi làm ruộng. Buôn bán thời ấy có mà chết. To bị cấm, nhỏ bị khinh, không như bây giờ.


Người già thường thế - lúc nào cũng so sánh ngày trước và bây giờ. Trong cách nói của họ cái ngày trước dù có tồi tàn đến mấy, dù họ có chê bai nó đến mấy, cũng vẫn là cái gì đó tốt hơn bây giờ.


Cụ Trưởng Giám làm ruộng, đốn gỗ. Cụ không cần coi cái quán. Gọi là quán, chứ nó chỉ là một túp lều lợp lá chuối ở vệ đường. Cứ việc bày mấy món hàng lên cái chõng tre xộc xệch rồi muốn làm việc gì thì làm. Khách qua lại rẽ vào quán, tự nhiên ăn, tự nhiên uống, tính lấy tiền trả mà vào một ống nứa. Trên chõng vẻn vẹn vài nải chuối ngô, đĩa sắn luộc, đĩa lạc rang, chĩnh nước vối.... Giá các món hàng được viết nguệch ngoạc bằng mực tím trên giấy dó. Khách là dân lái xe đường dài, bộ đội đi công tác lẻ, chẳng ai thèm ăn quỵt.


Sau, thấy đất ấy làm ăn được người ta mới kéo đến, nhà nọ nối nhà kia thành xóm. Chiến tranh hết, sự buôn bán ven biên được khai thông, được mở rộng, dân cửu vạn đi lại rầm rập, quán trọ nhà hàng mới mọc lên như nấm sau mưa. Rồi có cả mấy tổ hợp làm măng xuất khẩu, máy rửa măng, máy đóng hộp xình xịch ngày đêm.


Tôi nhắc cụ quay về với sự tích cái tên lạ tai.


- Ờ, là thế vầy. Thoạt kỳ thuỷ, xóm này chẳng có tên có tuổi gì sất. Đến khi người đông dần, quán xá nhiều, chính quyền đã thu thuế, thì cái xã trên đường ở đàng kia kìa mới toan ghép nó vào địa giới của mình. Cái xã ở trong rừng không chịu. Hai bên giành nhau, huyện không biết phân xử thế nào, đùn cho tỉnh. Tỉnh cũng bối rối, nay quyết thế này, mai quyết thế khác. Có điều lạ là chẳng bên nào buồn hỏi ta muốn nhập vào đâu, ta có muốn nhập hay không. Ta đây là mấy nhà xóm này ấy. Nhập vào đâu làm gì? Cái xóm tự nó mọc ra, tự nó lớn lên, trên không chằng dưới không rễ, một mình một cõi, nó có thuộc về ai bao giờ.


- Xóm gần xã nào hơn, cụ?


- Bằng chằn chặn.


- Thế thì khó xử thật.


- Kiện lên kiện xuống, sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, có lúc nó đã có tên đấy: xóm Tân Lập, xã Đông Phong…


- Tức là thuộc về cái xã bên đường cái?


- Không phải. Thuộc cái xã trong rừng.


- Tân Lập, cái tên nhàm, nhưng nghe cũng được. – tôi nói.


- Được cái con khỉ ! - cụ Trưởng Giám gắt – Nó cho mình cái tên êm tai để nó giắt mình vào cạp quần. Hai xã tiếp tục kiện. Ta cũng đâm đơn lên trên, ta cóc muốn về với bên nào, ta muốn một mình một cõi. Lằng nhằng mãi. Mới có cái tên là Cù Cưa. Ta lúc bấy giờ là người đứng đầu ở đây. Ta, tức là cả xóm.


- Đã thành thị trấn rồi sao người ta vẫn gọi là Cù Cưa?


- Thị trấn Tân Sinh chỉ có trên giấy, người qua kẻ lại vưỡn cứ bằng vào cái tích mà gọi nó là Cù Cưa. Ông có thuốc đấy không?


Cụ chìa cho tôi cái điếu bát. Tôi không hút thuốc lào, tôi móc túi lấy bao Vinataba. Cụ đón bao thuốc, nhón một điếu, châm lửa, bỏ bao thuốc xuống chõng, bên đùi mình. Tôi mở xà cột, lấy bao khác.


- Bây giờ thị trấn có bao nhiêu dân, thưa cụ?


- Cái ấy ông phải hỏi Con Nặc Nô. Thời ta không có lệ đếm người. Trâu bò thì có, người thì không. Cứ việc lấy nhau, cứ việc đẻ. Đất này tốt, đàn bà mắn.


- Con Nặc Nô là ai cơ, thưa cụ?


Cụ Trưởng Giám trề môi dưới trong câu trả lời không âm thanh.


Hoá ra Con Nặc Nô không phải một con mẹ ba vạ nào đó, mà là bà chủ tịch thị trấn. Tôi không biết từ nguyên của Nặc Nô là gì, nhưng chắc chắn nó có nghĩa không đẹp. Người ta dùng nó để chỉ người đàn bà chanh chua, chỏng lỏn, hùng hổ, lắm điều, đanh đá, và nhiều từ chỉ tính xấu tương tự. Không phải mình cụ Trưởng Giám gọi người đứng đầu thị trấn bằng cái tên như thế, sau này tôi mới biết. Chỗ khác nhau là cụ Trưởng Giám nói to, còn dân thị trấn nói nhỏ. Sự đời là vậy, chẳng có gì lạ, không ưa thì dưa có giòi. Nhất là đối với những bậc chức sắc của chính quyền. Họ bao giờ cũng là mục tiêu của sự đàm tiếu, và tất nhiên, của sự soi mói.


Con Nặc Nô không còn trẻ, nhưng cũng chưa đến nỗi già. Không chồng. Dân bình luận: trên không thèm sờ đến, dưới không dám với tới. Sắc đẹp không khá, không kém, coi như thường thường bậc trung. Có thể chê đôi lưỡng quyền cao, làn da không được mịn màng, không được trắng trẻo, tuy cũng không thể gọi là thiết bì. Hàm răng hơi hô, với những cái răng to, không đều.


- Chào nhà báo. – nàng tươi cười đón tôi trong trụ sở uỷ ban, trong phòng làm việc rất khang trang của nàng – Em vẫn thường đọc báo anh đấy. Báo của anh uỷ ban em không đặt mua, nhưng tiếng tăm lắm.


Khi nàng cười, trông nàng tươi tắn. Tôi chỉ có thể gọi nàng là “nàng”. Bởi vì khi giao tiếp nàng không những không có vẻ đáng ghét như cái tên thiên hạ đặt, mà về khía cạnh nào đó phải nhận rằng nàng dễ thương, thậm chí còn chút duyên dáng. Trong cử chỉ. Trong giọng nói ngọt ngào, thánh thót. Mà không chỉ giọng nói, cái cách nàng nói cũng quyến rũ. Khi nàng cười, tôi bất giác bật cười theo. Nghe nàng nói véo von, tôi quên cả ghi chép, để nàng phải giục:


- Ơ kìa, anh không ghi thì rồi quên mất cái chi tiết ấy. Nó thú vị đấy chứ?.


Tôi ghi. Nàng ngọt ngào:


- Gặp anh vui thật. Này, em cũng là đồng nghiệp với anh đấy, anh biết không?


- Thế ư?


Tôi cũng vui với nàng. Con Nặc Nô mở ngăn kéo lấy ra một tập hồ sơ, đưa cho tôi. Thì ra không phải hồ sơ, mà là một tập thơ. Thì ra nàng cũng là nhà thơ. Thơ đăng báo tỉnh, nhưng cũng là thơ được in, với những vần thơ có xuống hàng hẳn hoi, không giống thơ liền tù tì một câu dài nửa trang của nhóm Phá Cách là thứ thơ tôi kính trọng nhưng không đọc.


- Anh thấy thế nào?


Nàng đặt tay lên tay tôi. Da nàng mát rượi.


Tôi đọc. Thơ của nàng là thứ thơ củ khoai, thơ cổ động, thường lạc vận, đôi chỗ leo thang, nhưng dễ hiểu. Nó bốc thơm, nó kêu gọi, nó ra lệnh. Thứ thơ này thường được các bậc cầm cân nảy mực quốc gia ưa thích, vừa dễ làm, trông giống thơ, được các nhà xuất bản nhà nước công nhận là thơ.


- Cũng được đấy.


- Được là thế nào? – nàng nguýt tôi - Chỉ có hay trở lên thôi.


Tôi lập tức đồng ý với nàng.


Chúng tôi thân nhau ngay. Sau cuộc gặp gỡ đáng ngán với một ông già nhát gan và một ông già ba gai, nàng là luồng gió mát.


Con Nặc Nô kéo tôi đi thăm thị trấn. Ở đâu nàng cũng được trọng vọng. Từ trong các cửa hàng người ta chào vọng nàng bằng nụ cười tươi, nói những lời có cánh. Mấy anh công an nhác thấy nàng là xin gặp riêng một phút để báo cáo những vụ việc khó xử.


- Thị trấn là một nước nhỏ. – nàng nói – Đủ thứ công việc: tài chính, thương mại, an ninh, ngoại giao, ngoại thương, nội chính…. Vất vả lắm. Như con mọn ấy.


Bữa trưa, nàng dẫn tôi đi ăn phở chua, một món ăn lạ miệng tôi chưa hề nếm qua, một cái gì đó ở giữa bát “thắng cố” của miền núi với phở xào mềm rưới nước dưa.


Buổi tối, chúng tôi ăn đặc sản, “ở cửa hàng này có đủ mọi thứ thịt rừng mà thủ đô không có, rồi anh thấy”, nàng nói. Tôi được ăn thịt nhím nướng ròn, trăn om nghệ, bìm bịp xào nấm hương.


- Tuyệt thật.


Nàng đưa tay quệt mép. Nàng ăn say sưa.


- Người Tàu cũng thường sang đây ăn. Họ đặt mua thú rừng với số lượng lớn. Nhờ thế mà thợ săn kiếm được, thương lái giàu lên.


- Thế chuyện bảo vệ động vật quý hiếm thì sao?


- Thì cứ bắt, cứ bán cái đã. Ngày mai là chuyện của trời.


Nàng cười ngặt nghẽo.


- Kinh tế thị trường mà. Anh uống đi.


Tôi uống. Rượu Mai Quế Lộ. Nặng mà êm.


Khuya, nàng dẫn tôi về nhà nàng, tiếp tục kể chuyện Cù Cưa. Trong nhà nàng cũng sẵn rượu. Nàng mở chai Mao Đài thết tôi. Thứ Mao Đài trong bình sứ, bọc nhiễu đỏ, người biếu nói phải đặt mua tận Bắc Kinh mới có. Quý lắm.


Tôi lên giường nàng lúc nào không hay. Chuyện này hiếm giữa hai người mới quen nhau. Nhưng rượu làm cho tôi mất khả năng ngạc nhiên. Tôi chỉ thấy một cơn vui dâng lên, tràn ngập. Trên giường nàng không hiền dịu, mà là một con hổ cái. Mồ hôi đầm đìa, tôi anh dũng vật lộn với con hổ. Cho đến khi nàng vắt kiệt tôi, biến tôi thành cọng dọc mùng mềm nhũn trong bát canh bung, tôi mới được thả ra.


Chúng tôi nằm bên nhau, thở rốc.


- Bây giờ thì anh về. – nàng đứng lên, ráo hoảnh – Anh ở khách sạn hử?


Tôi hiểu. Nàng không để tôi ở lại. Không thể. Hoặc không muốn. Nàng là người đứng đầu thị trấn. Một thứ lãnh tụ. Mà lãnh tụ thì phải đạo đức. Không tì vết.


- Anh cầm lấy cái đèn pin mà về.


Nàng nói, với một chút ân cần.


Đèn pin trong tay, tôi lảo đảo bước ra đêm đen. Ngôi nhà hai tầng của nàng là một khối sáng trong bóng tối. Dưới chân nó, sau nhà, là một con suối. Tôi không nhìn thấy nó, nhưng nghe tiếng nước chảy rì rầm. Một ngôi nhà to. Trong đó có một con hổ cái.


Thị trấn im lìm trong đêm. Cuối cùng rồi tôi cũng lần mò tìm được khách sạn. Hình như nó là cái duy nhất. Đúng như lời cụ Cần, một cái nhà trọ, với những căn phòng trống và những chiếc giường trải chiếu ẩm ướt. Tôi vừa đặt mình xuống thì những con rệp hung hãn đã ào ào xông tới.


Ngày thứ hai


Tôi đến nhà cụ Cần khi còn tối đất. Tôi tin chắc người già dậy sớm. Quả nhiên cụ Cần đã ở ngoài vườn, đang dọn cỏ mấy luống rau. Cụ ngạc nhiên:


- Tối qua sao anh không về? Ngủ đâu?


- Cháu ngủ khách sạn.


Cụ đưa bàn tay khum khum lên vành tai.


- Ai đưa anh đến đấy?


Tôi lúng túng:


- Cháu tự tìm.


Cụ nhìn vào mặt tôi:


- Rệp cắn không ngủ được, phải không?


Tôi tránh cái nhìn soi mói của cụ.


- Vâng.


Cụ Cần mỉm cười.


- Anh đã gặp Con Nặc Nô?


- Dạ, đã.


- Vào nhà uống nước.


Tôi theo cụ vào nhà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét