Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

(2) “Trung Quốc là cả một trò lừa đảo kiểu Ponzi”

“Trung Quốc là cả một trò lừa đảo kiểu Ponzi”
Cuộc chiến vô hình: Tướng Mỹ Robert Spalding viết về Trung Quốc (phần tiếp)
Hụt bước cầu tàu
Khoảng hai trăm triệu container vận tải đã đi qua các cảng của Trung Quốc vào năm 2017, theo tạp chí Journal of Commerce. Loại container được sử dụng nhiều nhất là 20’, hay đơn vị tương tương hai mươi foot TEU, với dung tích bên trong khoảng 1.170 foot khối và trọng lượng tối đa 67.196 cân Anh. Các tàu chở hàng khổng lồ như New-Panamax và loại tàu thực sự khổng lồ Ultra Large Container Ship – những chiếc tàu lớn đến nỗi chúng không thể cập vào hầu hết các cảng của Hoa Kỳ – chở được lần lượt 14.000 và 20.000 TEU. Việc tổ chức để vận chuyển mọi loại sản phẩm có thể tưởng tượng ra trên trái đất – từ đồ chơi, muối và chuối đến lò phản ứng hạt nhân, dầu và bẫy chuột – đã được tiêu chuẩn hóa bởi Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO). ISO đã làm việc với hơn 160 quốc gia để mã hóa các kích thước chấp nhận được của các container nhằm làm cho việc bốc dỡ hàng hóa càng đồng nhất và hiệu quả càng tốt.

The Epoch Times - Gen. Robert Spalding: On the Hong Kong Protest ...
ISO 9001 là tiêu chuẩn quốc tế cho một hệ thống quản trị phẩm chất để tuân thủ các quy luật về vận chuyển. Được chứng nhận ISO 9001 có nghĩa là một công ty đã tuân theo các hướng dẫn của tiêu chuẩn này, đáp ứng các yêu cầu riêng của họ, đáp ứng các yêu cầu theo luật định và quy định, và duy trì hồ sơ. Các công ty được cấp chứng nhận theo nhiều phương diện kinh doanh khác nhau – kỹ thuật, sản xuất, v.v. – sau khi hoàn thành một cuộc kiểm toán chính thức. Có chứng nhận này được cho là mang lại tính hợp pháp cho công ty: các sản phẩm của họ an toàn, ổn định, và sẽ không bị vỡ khi mở.


Khoảng 12 triệu TEU được vận chuyển từ Trung Quốc đến Hoa Kỳ mỗi năm, tính trung bình gần 33.000 container mỗi ngày. Hoa Kỳ chỉ được phép cử bốn – 4! – thanh tra vận tải sang làm việc ở Trung Quốc. Nghĩa là mỗi thanh tra viên sẽ phải kiểm tra khoảng 8.250 container sắp lên đường tới Hoa Kỳ mỗi ngày. Nhưng tất nhiên điều đó bất khả thi, vì có ít nhất 20 cảng ở Trung Quốc được sử dụng cho vận tải quốc tế và không ai trong số bốn thanh tra viên này có thể xuất hiện ở năm nơi cùng một lúc.

Ngay cả khi Trung Quốc cho phép Hoa Kỳ có 20 hoặc 2.000 thanh tra vận tải, các container này vẫn không được xem xét một cách có ý nghĩa, bởi vì các thanh tra viên không được phép thực sự kiểm tra các container. Tất cả những gì họ có thể làm là nhìn vào các tờ khai – nghĩa là, họ nhìn vào danh sách những món hàng các công ty khai là có chứa trong container. Một container có thể chứa 200 đôi vớ nằm trên 5.000 cân Anh fentanyl [một chất ma túy tổng hợp], nhưng nếu tờ khai nói có “20.000 đôi vớ thể thao màu trắng” được một công ty có chứng nhận ISO 9001 vận chuyển, thì không cần phải kiểm tra. Container được bốc xếp lên tàu và chở đi.

ISO 9001 nên được coi là sự chứng nhận tự động gần như vô nghĩa ở Trung Quốc, không phải là sự xác nhận về phẩm chất tạo thêm sự tin cậy. Phụ trách 50% số cuộc kiểm toán và xác nhận kết quả là việc của một công ty thuộc sở hữu của ĐCSTQ, và ĐCSTQ hoàn toàn không muốn làm chậm các hoạt động sản xuất, bán hàng, hoặc xuất cảng có thể mang đô la về. Ngoài ra, các kiểm toán viên bị mua chuộc dễ dàng.

Còn đối với các thanh tra viên Trung Quốc làm việc tại các bến cảng, thái độ cảnh giác và việc khám phá ra những chuyến hàng chứa những sản phẩm lậu hoặc không kê khai sẽ bị họ nhăn mặt. Mở một container và lục soát cần thời gian. Và thời gian là tiền bạc. Các thanh tra viên có thể bị phạt vì trì hoãn việc bốc xếp và giờ khởi hành của một chuyến tàu.

Thế cho nên đây là cách nào và tại sao thị trường Mỹ lâu nay tràn ngập hàng giả. Không có sự kiểm tra lẫn nhau ở Trung Quốc để bảo đảm kiểm soát phẩm chất. Không có cơ quan bảo vệ người tiêu dùng, không có cơ quan bảo vệ môi trường, văn phòng cấp bằng sáng chế hoặc nhãn hiệu, không có FDA [Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm] hoặc IRS, không ai quan tâm đến việc bảo đảm rằng các sản phẩm không gây hại và rằng có sự bảo vệ bản quyền, khả năng bị truy cứu trách nhiệm, và sự quản trị tốt. Nếu lốp xe phát nổ, nếu túi khí không mở, nếu một cảm biến phanh hết hoạt động sau 100 dặm, nếu không thu được một khoản phí cấp phép, nếu sản phẩm chứa chất độc, thì có sao đâu? Các sản phẩm đã biến mất. Thương vụ đã hoàn tất. Kế tiếp!

Gián điệp thương mại 2.0

Những vụ gián điệp thương mại và trộm cắp tài sản trí tuệ hiếm khi được nói tới.

Nếu một cửa hàng trang sức hoặc một viện bảo tàng bị cướp, cảnh sát được gọi. Báo chí đưa tin về vụ cướp và nói về giá trị của những gì bị đánh cắp. Nó trở thành một sự kiện có thể định lượng – “vụ trộm trị giá 2 triệu đô la” hoặc “bức tranh trị giá 10 triệu đô la.” Ai nấy nói về tội ác tại nơi làm việc, trên Twitter, trên các chương trình truyền hình giờ khuya. Khi nghi phạm được xác định, một cuộc săn lùng diễn ra.

Nhưng với nạn gián điệp thương mại và trộm cắp tài sản trí tuệ của các công ty, thường chỉ có sự im lặng. Nếu thực hiện giỏi, một vụ trộm thương mại là vô hình. Nó bao gồm sao chép các tài liệu, bản kế hoạch kỹ thuật, công thức hóa học, mã máy tính, dữ liệu thô. Nó khác với đánh cắp một bức Picasso trên tường viện bảo tàng. Tuy nhiên, hãy tưởng tượng ra việc đánh cắp bức tranh và thay thế nó bằng một bức tranh giả xuất chúng, giả mạo giỏi đến nỗi phải sau cả năm mới có một chuyên gia phát giác bản gốc đã biến mất. Loại phản ứng “chúng ta đã bị trộm” chậm trễ này xảy ra quá thường trong thế giới doanh nghiệp, nhưng nó cũng là phản ứng bị hãm thanh. Báo cáo vụ trộm có thể làm giảm niềm tin của nhà đầu tư, làm tổn thương tinh thần nhân viên công ty, và tiết lộ tin tức cho các đối thủ cạnh tranh.

Một số công ty kiểm toán và kế toán nổi tiếng – Ernst & Young, Deloitte, PricewaterhouseCoopers, KPMG – thực hiện các cuộc điều tra tư nhân về nghi án gián điệp thương mại. Mức độ các cuộc tấn công do ĐCSTQ tài trợ mà các công ty này tìm thấy dao động từ mức căn bản nhất – hối lộ nhân viên để sao chép tài liệu, đặt sinh viên vào các viện nghiên cứu và áp lực để họ đánh cắp – đến những cuộc đột nhập tinh vi có sự tham gia của nhiều tin tặc và cả những chiến dịch gián điệp toàn diện.

Năm 2014, chủ tịch một quỹ đối trọng lớn gửi cho tôi một báo cáo được thuê thực hiện riêng về hoạt động bất hợp pháp của Trung Quốc trong các tập đoàn Mỹ. Bản báo cáo gây choáng về phạm vi và chi tiết. Và thông tin chứa trong đó đã làm lung lay thế giới quan của tôi đến tận nền tảng.

Những trang minh họa gây lo ngại nhiều nhất mô tả một cuộc tấn công để giành quyền kiểm soát công nghệ độc quyền mà một công ty đang lên đã phát triển. Phương pháp tấn công khiến tôi nhớ đến sự tinh vi của một chiến dịch không kích. Nó được đạo diễn một cách hoàn hảo để đánh lạc hướng một cách tinh tế và khai thông mục tiêu cho cuộc tấn công chớp nhoáng. Chiến dịch này nêu bật nguồn lực khổng lồ mà ĐCSTQ sẵn sàng dành ra để phá hoại các đối thủ kinh doanh hầu giành quyền kiểm soát thứ công nghệ họ muốn theo đuổi. Sau đây là những gì đã xảy ra.

Một công ty hóa chất Mỹ, sở hữu bởi một công ty cổ phần tư nhân, đã được cấp bằng sáng chế cho một công nghệ xanh đột phá và đang phát triển với tốc độ ổn định. Chủ nhân của nó bắt đầu phát triển một kế hoạch 5 năm để bán cổ phần ra công chúng.

Nhưng đột nhiên, công ty bắt đầu không bắt kịp các mục tiêu thu nhập của mình. Vấn đề dường như nằm trong khâu bán hàng – số đơn đặt hàng sụt giảm – và trong khâu hậu cần, bộ phận phụ trách dòng chảy của các sản phẩm. Người phụ trách khâu bán hàng bị sa thải, nhưng hiện tượng mất máu tiếp diễn. Các chủ nhân họp với đội ngũ lãnh đạo và cảnh cáo họ phải khắc phục các vấn đề, bởi vì những bước hụt liên tiếp sẽ đe dọa kế hoạch IPO. Không lâu sau đó, công ty nhận được một lời chào mua không chờ đợi từ một công ty Trung Quốc. Lời chào mua khiến các chủ nhân bị sốc – giá chào mua thấp hơn 30% so với giá trị mà công ty đáng có, nếu không đuổi hụt các mục tiêu thu nhập. Ban quản trị thì choáng váng: Làm cách nào mà phía chào mua đưa ra được một sự định giá chính xác như vậy mà không nắm dữ liệu của công ty? Có vẻ như họ đã biết rõ những tổn thất mới đây.

Các chủ nhân bèn thuê người điều tra. Họ khám phá ra không chỉ công ty hóa chất đã bị tin tặc tấn công, mà cả công ty cổ phần tư nhân sở hữu nó cũng bị. Bọn tin tặc nắm được các mục tiêu thu nhập của công ty và những lằn ranh đỏ được xem là không thể chấp nhận được đối với các chủ nhân.

Vụ phá hoại đạt mức độ sáng chói, xét trên bình diện chuyên môn của nghề gián điệp. Các máy chủ điện thư đã bị tấn công có chọn lọc, để mỗi khi công ty gửi thư chào mua ra ngoài, bọn tin tặc sẽ xóa thư trước khi thư được gửi đi. Tương tự, khi đơn đặt hàng gửi vào, một số đã không bao giờ vào tới hộp thư của đội ngũ bán hàng – vì bọn tin tặc đã chặn thư. Sự phá hoại có chọn lọc này vừa đủ để phương hại doanh thu nhưng chưa đủ để dẫn đến một cuộc điều tra.

Trong khi đó, bọn tin tặc cũng phá hoại khâu hậu cần ở sân sau. Khi một đơn đặt hàng gửi vào mua, giả dụ như, 1.000 đơn vị, bọn tin tặc sẽ thay đổi số lượng thành 900. Khi sự thiếu hụt được khám phá ra – thường là sau khi đợt hàng đã được gửi ra hoặc sắp được gửi ra – một đơn đặt hàng thêm sẽ được tạo ra. Chi tiết tế nhị này tạo thêm phí tổn cho các khâu lao động, giao hàng, v.v. và tác động đến lợi nhuận.

Một điệp vụ táo bạo. Tinh tế, gần như không thể nào nhận ra. Thực thể duy nhất có những nguồn lực và trình độ để tiến hành một âm mưu phức tạp như thế hẳn phải là nhà nước.

Quỷ kế này kết tinh mức độ chiến tranh kinh tế mà Trung Quốc đang tiến hành. Nó không chỉ là trộm cắp – sao chép tài liệu của một công ty tương đương với đập phá và trộm hàng hóa trong một cửa tiệm. Đây là một vụ lừa đảo chiến lược trên nhiều cấp độ. Tại một thời điểm, ĐCSTQ đã đặt ra chính sách công nghiệp và đưa công nghệ xanh lên hàng ưu tiên. Một khi đã xác định được đích nhắm là công ty hóa chất mới khởi nghiệp của Hoa Kỳ, một người nào đó đã khởi xướng một chiến dịch đòi hỏi cả kế hoạch tình báo, hoạt động tin tặc của Quân đội Giải phóng Nhân dân, và sự giám sát cũng như phân tích do một doanh nghiệp quốc doanh phụ trách. Mục tiêu là phá hoại và hạ giá một công ty Mỹ để mua nó với giá thấp hơn thị trường, hầu thủ đắc công nghệ mà ĐCSTQ coi là quan trọng. Đó không là gì khác hơn một cuộc tấn công được chính quyền cho phép nhằm vào một công ty Mỹ.

Khi tôi tham gia Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, vào năm 2014, tôi chia sẻ báo cáo này với gần như mọi người tôi gặp tại Ngũ Giác Đài. Phản ứng lúc nào cũng như nhau: “Chúa ơi, điều này thật kinh khủng!” Sau đó, họ sẽ nói, “Đó không phải là công việc của tôi.” Và tất nhiên, về mặt giữ đúng nhiệm vụ truyền thống của quân đội, thái độ đó hoàn toàn hợp lý. Công việc của quân đội là lên kế hoạch chiến đấu, chuẩn bị cho cuộc chiến, tiến hành cuộc chiến, hoặc duy trì trật tự. Còn việc bảo vệ các công ty Mỹ? Chẳng liên quan gì tới chúng tôi!

Nhưng với tôi, đây là hành động chiến tranh rõ rệt. Đây là sự thù địch, là hành vi săn mồi, vi phạm luật pháp quốc tế. Và nó nhằm mục đích làm tổn hại quốc gia của chúng ta.

Tôi đã đến Bộ Tài chính và Bộ Thương mại. Tôi đã gặp giới chức Bộ Ngoại giao. Tôi nhận được một câu trả lời chung hết sức khôi hài: “Trung Quốc không phải là đối thủ của chúng ta, họ là bạn của chúng ta. Chúng ta hợp tác với họ.” Tôi nhìn họ và nghĩ, “Nhưng tôi vừa cho quý vị xem những nghiên cứu chứng minh rằng họ không phải là bạn của chúng ta.”

Tôi đi đến kết luận là sẽ không ai làm bất cứ một điều gì đối với vấn nạn gián điệp thương mại và chiến tranh kinh tế của Trung Quốc. Đó là đề tài nhạy cảm, và không ai muốn chạm vào nó. Cuối cùng tôi tìm thấy một đồng minh trong Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Tôi không muốn nêu tên ông, nhưng tôi coi ông như một vị anh hùng. Không như nhiều sĩ quan cao cấp khác, ông hiểu rằng chiến tranh kinh tế, trên thực tế, chính là chiến tranh và quân đội có nhiệm vụ bảo vệ những biên thùy mới. Và ông cho phép tôi tiếp tục nghiên cứu những hoạt động kinh tế thù địch của Trung Quốc và phát triển chiến lược để ứng phó với các vấn đề.

Khi tôi nói với mọi người về công việc tôi đang làm, phản ứng thường gặp là một câu hỏi đầy nghi ngờ: “Tại sao anh lại để mắt tới điều này?”

Câu trả lời của tôi: “Vì không ai khác để mắt tới.”

Khuynh đảo thương trường

Phá hoại và gián điệp chỉ là hai cách để làm đảo lộn một thị trường. ĐCSTQ cũng dựa vào nhiều chiến lược khác để kiểm soát và chiếm lĩnh thị trường, từ hạ giá nuốt trửng thị trường và nhử món này bán kèm món nọ đến bắt nạt kiểu truyền thống.

Hãy bắt đầu với việc bắt nạt. Trung Quốc là nhà sản xuất hải sản hàng đầu thế giới, tạo ra gần bảy mươi triệu tấn trong năm 2017. Họ sử dụng khoảng một triệu người trong ngành công nghiệp cá đông lạnh, cũng lớn nhất thế giới. Xuất cảng thủy sản Trung Quốc lên tới 19,3 tỷ đô la trong năm 2016.

Đáng chú ý là cá hoang dã đánh bắt trong các vùng biển của Trung Quốc trong chín tháng đầu năm 2017 đã giảm 11,9%, nhưng theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, cá đánh bắt ở vùng biển của các nước khác tăng 14,2% so với năm trước đó.

Nói cách khác, Trung Quốc, nước chiếm hơn 60% sản lượng hải sản nuôi trồng toàn cầu, không thể duy trì sản lượng hải sản hoang dã bằng cách dựa vào sản phẩm khai thác từ vùng biển ven bờ của mình. Thế thì họ làm gì? Họ phái các tàu đánh cá của mình đi khắp thế giới để càn quét các vùng biển ven bờ của các quốc gia yếu hơn, thường xuyên xâm lấn các quốc gia không có hải quân mạnh hay thậm chí không có một lực lượng hải quân nào.

Cần xác định rõ, việc đánh bắt cá trong vùng biển quốc tế là hoàn toàn hợp pháp. Tuy nhiên, việc khai thác sự giàu có, chẳng hạn, của quần đảo Galapagos thuộc Ecuador – nơi, vào tháng 8 năm 2017, hai mươi ngư dân Trung Quốc bị phát hiện với một mẻ đánh bắt gồm 6.600 con cá mập – là vi phạm luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, các vùng đặc quyền kinh tế để đánh bắt cá trải rộng 200 hải lý từ bờ biển của một quốc gia.

Ở Nam Mỹ, tàu Trung Quốc bị bắt gặp đánh cá trong các vùng biển Argentina, Chile, Peru và nhiều quốc gia khác. Vào tháng 3 năm 2016, lực lượng tuần duyên Argentina phát giác một tàu Trung Quốc, chiếc Lu Yan Yuan Yu, đánh cá trong vùng biển của họ và bắn một phát súng cảnh cáo để ngăn chặn. Tàu Lu Yan Yuan Yu đã thử đâm vào tàu Argentina nhưng hành động này phản tác dụng; phía Argentina nổ súng, và tàu cá chìm. Ngày nay, nhiều tàu cá Trung Quốc biết tự trang bị những bộ phận đệm có thể dùng để đâm vào tàu khác và ngăn các tàu khác tới gần.

Trong khi Trung Quốc tuyên bố họ đang giám sát gắt gao tình hình, các tàu cá Trung Quốc vẫn được thấy xuất hiện ở xa tận Nam Phi.

Chèn ép những quốc gia nhỏ hơn để đánh cắp tài nguyên thiên nhiên của họ là một chiến thuật. Cung cấp những thỏa thuận phát triển hào phóng bên trong ẩn chứa những điều khoản cắt cổ là một chiến thuật khác. Trung Quốc hiện đang trong tiến trình triển khai sáng kiến cơ sở hạ tầng toàn cầu Vành đai và Con đường trị giá nhiều tỷ đô la để thống trị ngành vận tải hàng hóa trên khắp hành tinh. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa và mục đích của Vành đai và Con đường trong một chương sau, nhưng do chúng ta đang đề cập đến vấn đề kiểm soát thị trường, có hai điều đáng lưu ý: kiểm soát vận tải là một phương pháp nắm huyết mạch của dòng chảy thương mại, và xây dựng cơ sở hạ tầng cho các quốc gia đang gặp khó khăn về kinh tế là một diệu kế để giành lấy đòn bẩy kinh tế tại các quốc gia mà bạn được cho là “đang giúp đỡ.” Các sáng kiến này, theo một nghĩa nào đó, chính là nợ và bẫy tiếp cập thị trường.

Một ví dụ mới đây về cách Trung Quốc phù phép biến một cuộc “viện trợ nước ngoài hữu ích” thành ra sự “kiểm soát” là dự án cảng Hambantota khổng lồ ở Sri Lanka. Đây là một quốc gia bị chiến tranh tàn phá không nằm cao trong danh sách đối tác thương mại của bất cứ nước nào trong nhiều thập niên. Nhưng trong giai đoạn mười năm Tổng thống Sri Lanka Mahinda Rajapaksa tại vị, công ty quốc doanh China Harbor Engineering Company đã đạt được những thỏa thuận khổng lồ về hiện kim và tín dụng để xây dựng cảng nước sâu trị giá nhiều tỷ đô la ở cực nam của hòn đảo.

Rajapaksa thất cử tổng thống năm 2015, để lại cho các lãnh đạo mới một núi nợ từ các thỏa thuận của ông với Trung Quốc. Và Trung Quốc, hành động giống như một kẻ cho vay nặng lãi hơn là một đồng minh nhân từ, đã từ chối giảm nhẹ các điều khoản đã được đàm phán. Năm 2017, chính phủ Sri Lanka đành bàn giao quyền kiểm soát cảng Hambantota và 15 ngàn mẫu đất xung quanh cảng trong 99 năm.

Trung Quốc giờ đây có một cảng vừa sát sườn vừa đi vòng qua Ấn Độ, đối thủ cạnh tranh sản xuất lớn nhất của mình. Và trong khi hợp đồng thuê Hambantota cấm Trung Quốc sử dụng cảng cho các mục đích hải quân, có mối lo ngại đáng kể là họ sẽ cố gắng đàm phán các điều khoản đó hoặc đơn giản là làm ngơ chúng, như họ rất thường làm với mọi vấn đề pháp lý.

Tuy nhiên, xét về ý đồ và mục đích, rõ ràng Trung Quốc đã không thực sự giúp đỡ Sri Lanka cải tiến cơ sở hạ tầng – Trung Quốc chỉ khiến nước này chìm trong nợ nần và đến nay đã giành quyền kiểm soát kinh tế đáng kể đối với quốc gia đang gặp khó khăn nhưng có vị trí chiến lược.

Đưa ra những thỏa thuận ngọt ngào cho những quốc gia có nền kinh tế trì trệ trên thực tế là quy trình hoạt động thông thường của một số công ty được ĐCSTQ hỗ trợ. Và những điều kiện kèm theo có thể không phải lúc nào cũng rõ ràng. Trung Quốc đã cực kỳ năng động ở châu Phi. Năm 2018, Chủ tịch Tập cam kết viện trợ 60 tỷ đến 80 tỷ đô la cho các quốc gia châu Phi. “Trung Quốc không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của châu Phi và không áp đặt ý chí của mình lên châu Phi,” Tập nói. “Những gì chúng tôi đánh giá cao là việc chia sẻ kinh nghiệm phát triển và sự hỗ trợ mà chúng tôi có thể cung cấp cho sự thịnh vượng và hồi sinh quốc gia của Châu Phi.”

Nhưng nhận tiền của Trung Quốc sẽ kéo theo nhiều vấn đề. Nếu Trung Quốc xây một mạng điện thoại, họ sở hữu tài sản trí tuệ. Nếu một công ty Trung Quốc xây một nhà máy điện, công ty ấy sở hữu các kế hoạch và hoạt động. Và các dự án này, giống như cảng của Sri Lanka, có thể là bẫy nợ. Việc kiểm soát cơ sở hạ tầng quan trọng cho phép Trung Quốc sử dụng áp lực trong những lĩnh vực khác. Nhiều bản tin ghi nhận các chính phủ châu Phi đã bị áp lực không công nhận Đài Loan. Chắc hẳn họ cũng sẽ bị áp lực phải giữ im lặng trước việc Trung Quốc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng và những người ủng hộ tự do ngôn luận. Theo cách này, tiền viện trợ có thể được biến thành cái có thể gọi là bẫy tự do.

Trong một thời gian ngắn đáng chú ý, Transsion Holdings, một công ty ở Thâm Quyến được thành lập năm 2006, đã chiếm được thị trường điện thoại di động châu Phi và hạ bệ người khổng lồ toàn cầu Samsung của Nam Hàn. Kẻ mới đến có một số sáng chế dành riêng cho Châu Phi, như khe cắm cho nhiều thẻ SIM, cho phép chia sẻ điện thoại giữa những người dùng có số điện thoại và nhà cung cấp dịch vụ khác nhau. Nhiều kiểu điện thoại được thiết kế để pin có tuổi thọ dài hơn, vì điện là mặt hàng hiếm ở nhiều vùng của lục địa này. Nhưng công ty đã thu hút được khách hàng bằng cách hạ giá thấp hơn thị trường; có tin tức cho biết họ đang bán điện thoại với giá xuống tới 50 đô la.

Như thế Transsion Holdings đã thành công qua việc cách tân và hạ giá mạnh tay. Việc định giá ấy có được bảo lãnh bởi Ngân hàng Trung Quốc hay không? Ai mà biết được? Các khách hàng mới này có nên cảm thấy thoải mái về sự riêng tư cho dữ liệu của họ hay không? Họ có lý do để lo lắng. Với hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc, nguy cơ can thiệp của ĐCSTQ luôn là một khả năng. Như đã lưu ý trong một đoạn trước, mọi tập đoàn Trung Quốc phải có một đảng viên ĐCSTQ trong hội đồng quản trị. Và một quốc gia châu Phi bị Transsion chiếm lĩnh – hoặc bất cứ quốc gia nào phụ thuộc vào viễn thông Trung Quốc – một ngày nào đó sẽ gặp nguy cơ dữ liệu của người dân bị lạm dụng cho những mục đích kinh tế hoặc để duy trì kiểm soát xã hội.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét