Tôi đồng ý với đa số các phân tích và khuyến trong bài dưới đây của TS Thọ dù chúng quá chung chung. Tuy nhiên có một số điều cần nhấn mạnh. Một là, TS đề nghị "phải bổ sung, chỉnh sửa đặc biệt là đánh giá tình hình và phương hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước; có rất nhiều nội dung cần làm mới". Tôi đã đọc dự thảo các văn kiện trình Đại hội, nhưng vì đây đều là tài liệu đóng dấu mật nên không thể đưa nhận xét của tôi lên đây. Tuy nhiên có thể nói chúng được xây dựng theo hệ tư tưởng bảo thủ, tư duy giáo điều, nội dung không khác gì những văn kiện trình ra các đại hội trước. Do đó, nếu thực hiện như TS Thọ khuyến nghị thì không giải quyết được vấn đề. Hai là, TS Thọ nhắc lại nhận định của TS. Henry A. Kissinger cho rằng ‘Đại dịch COVID-19 sẽ thay đổi trật tự thế giới mãi mãi’. Tôi thì đánh giá thấp ông TS người Mỹ này; ông phân tích và cố vấn chính sách sai nhiều lắm; điển hình là cố vấn việc ‘bình thường hoá’ và xây dựng quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Giờ ông ta nhận định "thay đổi trật tự thế giới mãi mãi" rất sai lầm. Không có cái gì là mãi mãi cả. Cũng không phải Đại dịch COVID-19 sẽ thay đổi trật tự thế giới mà quá trình thay đổi này đã diễn ra từ nhiều năm, thể hiện rất rõ từ khi D. Trump làm tổng thống Mỹ đầu năm 2017. Ba là, TS Thọ cho rằng việc giảm giá dầu cho thấy sự hoảng loạn của giới đầu tư. Theo tôi không phải giới đầu tư hoảng loạn mà thực tế rõ ràng đang trưng ra cho chúng ta thấy cung - cầu đang mất cân đối quá nghiêm trọng, các kho chứa dầu trên toàn thế giới đều đầy ứ, đặc biệt ngày 21/4 là ngày phải tất toán tất cả các hợp đồng mua bán dầu, nên họ buộc phải chủ động phá giá chỉ đúng trong ngày hôm đó. Bốn là, TS Thọ cho rằng chúng ta chống Covid với chi phí thấp. Điều này đúng nhưng nếu cân nhắc giữa lợi ích mang lại và chi phí bỏ ra, chấp nhận có một số rủi ro có thể phát sinh thêm một số tổn thất, nhất là không ‘đóng băng’ nền kinh tế và mọi hoạt động xã hội, thì chi phí có thể giảm rất nhiều. Năm là, con số tỷ lệ tăng GDP 5% năm 2020 là hão huyền đối với một nền kinh tế trì trệ, phi thị trường và mở cửa quá khủng khiếp như VN. Sáu là, đúng như TS nhận định, hiệu lực và hiệu quả của chính sách kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc thực thi bởi bộ máy chính quyền các cấp với nhiều cán bộ đảng viên suy thoái, biến chất, lợi ích nhóm, tham nhũng… Do đó, nguy cơ các chính sách đầu tư công mở rộng tràn lan sẽ bị lạm dụng, vốn đầu tư sẽ bị tham nhũng tràn lan và bị bố trí sai mục đích, gây tổn thất dài hạn tới vài chục năm tới. Cuối cùng, TS nhắc lại ‘Chính sách Kinh tế Mới’ của Lê Nin nhằm giải phóng sức sản xuất của người dân. Tôi cũng hy vọng Nhà nước ta thực hiện đổi mới lần 2, chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động hoàn toàn theo cơ chế kinh tế thị trường, vĩnh viễn xóa bỏ cái đuôi "định hướng XHCN".
Đại hội 13 và chính sách kinh tế thời đại dịch COVID-19
TS. Phạm Quý Thọ - Dự thảo các báo cáo trình Đại hội toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, vốn được soạn thảo xong trước đại dịch COVID-19, nay cần thiết phải bổ sung, chỉnh sửa đặc biệt là đánh giá tình hình và phương hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có rất nhiều nội dung cần làm mới, trong đó, theo tôi, trước hết cần một tư duy và chính sách kinh tế cấp bách trong ngắn hạn, nhưng thân thiện với thị trường, tái cơ cấu trong dài hạn, coi đại dịch này như một động lực thay đổi.
Đường phố Hà Nội giữa dịch COVID-19 hôm 22/4/2020
Khủng hoảng nặng nề và kéo dàiTính đến ngày 22/4/2020 trên thế giới đã có gần 2,6 triệu ca mắc COVID-19, số ca tử vong hơn 177 nghìn người… Khởi phát từ Trung Quốc từ tháng 12/2019, nay trung tâm đại dịch là Mỹ và châu Âu với số ca nhiễm và số tử vong cao nhất, được đánh giá chưa đến đỉnh, tuy nhiên các quốc gia đang chuẩn bị cho các phương án nới lỏng và dỡ bỏ lệnh ‘giãn cách xã hội’ để phục hồi kinh tế.
Nhiều nhận định rằng thế giới đang và sẽ chịu cuộc khủng hoảng kép: tổn thất lớn do đại dịch và khủng hoảng kinh tế nặng nề, thậm chí là suy thoái, còn hơn các khủng hoảng mà thế giới từng trải qua trong thế kỷ trước và gần đây, như Cuộc đại khủng hoảng năm 1929-1933 hay Khủng hoảng tài chính 2008-2009…
Đây là cuộc khủng hoảng ‘kinh tế thực’. Mọi hoạt động, từ sinh hoạt cộng đồng, vui chơi giải trí đến hoạt động kinh tế bị đột ngột dừng bởi các lệnh ‘giãn cách xã hội’, thậm chí là phong toả để chống coronavirus lây lan. Tình trạng ‘đóng băng’ nền kinh tế bị dự báo khủng khoảng nghiêm trọng và kéo dài.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), một Tổ chức có uy tín quốc tế và vốn thường có dự đoán lạc quan, thì nay đã đưa ra cảnh báo ‘u ám’ trong Báo cáo "Viễn cảnh kinh tế thế giới”, cho rằng kinh tế thế giới năm nay sẽ tăng trưởng -3%, thấp hơn 6,3% so với mức dự đoán 3,3% hồi tháng 1 vừa qua. Nền kinh tế thế giới có thể sẽ ghi nhận mức tăng trưởng ‘tồi tệ nhất’ trong vòng 90 năm trở lại đây, thấp hơn cả mức tăng trưởng -0,1% của năm 2009, bùng phát khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong đó, các nền kinh tế của Mỹ, Nhật, EU sụt giảm mạnh từ 20 đến 30% so với GDP năm 2019, và châu Á năm nay sẽ dần chậm lại và dừng hẳn (tăng trưởng GDP = 0%), lần đầu tiên trong 60 năm qua. GDP củaTrung Quốc cũng sụt giảm còn khoảng 2% từ mức 6,1% năm 2019.
Không ít bình luận bi quan rằng, ‘cuộc khủng hoảng này là một bước ngoặt trong lịch sử’, ‘làm biến đổi nền kinh tế thế giới’, ‘cả hệ thống kinh tế sẽ thay đổi’, và ‘nền kinh tế bình thường sẽ không bao giờ quay trở lại’… Hơn thế, cựu ngoại trưởng Mỹ, TS. Henry A. Kissinger, người được cho là có vai trò cố vấn ‘bình thường hoá’ quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc, cho rằng ‘Đại dịch COVID-19 sẽ thay đổi trật tự thế giới mãi mãi’… Các chính khách và các nhà nghiên cứu phân tích ‘các hệ lụy của đại dịch này đối với thế giới, châu Á, trong đó cả Đông Nam Á là rất nặng nề’, cảnh báo không nên ‘đánh giá thấp sự suy thoái của đại dịch này’ và kêu gọi coi đây là ‘thời khắc’ để thay đổi tư duy và hành động.
Giá dầu ngày 20/4 trong hợp đồng tương lai tháng 5 thấp kỷ lục, -37,63$/ thùng, cho thấy sự hoảng loạn của giới đầu tư, nhưng nó cũng là chỉ báo rõ ràng về thu hẹp phạm vi và năng lực sản xuất và tiêu dùng trên toàn cầu. Làn sóng thất nghiệp và đóng cửa các doanh nghiệp sẽ lan rộng không loại trừ quốc gia nào... Để kết nối lại các mạng lưới rộng khắp và phức tạp về cung, cầu và quan hệ xã hội đòi hỏi thời gian và chi phí, bởi vậy các chính sách công, trước hết chính sách cứu trợ, có vai trò quan trọng.
Ưu tiên chính sách ngắn hạn, tái cơ cấu trong dài hạn
Là nước nhỏ về quy mô kinh tế nhưng có độ mở nền kinh tế cao, Việt Nam chắc sẽ không tránh khỏi ‘khủng hoảng kép, y tế và kinh tế’. Sau hơn 3 tháng nỗ lực và chủ động phòng chống dịch, tổng số ca nhiễm vẫn chỉ là 268, sáu ngày liền chưa có ca nhiễm mới, 222 được chữa khỏi và chưa có tử vong. Thế giới đánh giá cao sự thành công với ‘chi phí thấp’ như bài học đối với nhiều nước đang phát triển.
Chính phủ Việt Nam đã coi ‘chống dịch như chống giặc nhưng cứu kinh tế phải hơn cứu hoả’. Các đánh giá tác động của đại dịch đến kinh tế và kịch bản tăng trưởng được đưa ra thay đổi theo mức độ nghiêm trọng của nó trên toàn cầu, trong đó phương án xấu có thể xảy ra là tỷ lệ tăng GDP năm 2020 khó đạt 5%.
Các chuyên gia cho rằng tác động là nghiêm trọng, và dù là nước nghèo nhưng Việt Nam vẫn có đủ nguồn lực để tạo "vùng đệm rủi ro" để giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Cũng theo dự báo nêu trên từ IMF, Việt Nam sẽ ‘lạc quan hơn’ nhiều quốc gia trên thế giới với tăng trưởng GDP của năm 2020, nhưng vẫn suy giảm xuống còn 2,7% từ mức 7,02% của năm 2019, đồng thời dự kiến sẽ phục hồi lên 7% vào năm 2021.
Các chính sách cứu trợ tập trung vào: Hỗ trợ doanh nghiệp, duy trì việc làm và thu nhập cho người lao động và Trợ cấp cho các đối tượng chính sách, người nghèo, yếu thế, lao động tự do. Chính phủ ngày 04/3/2020 đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về ‘các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19’ với tổng kinh phí khoảng 285 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 6% GDP.
Đường phố vắng vẻ bên ngoài trụ sở của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và World Bank ở Washington DC hôm 15/4/2020 AFP
Khác với các nước phát triển tung ra những gói cứu trợ lớn chưa từng có, chiếm tới trên 10% GDP như Mỹ, Việt Nam với nguồn lực còn hạn chế, dự kiến thu ngân sách có thể giảm, việc ban hành và thực thi chính sách cứu trợ là một khó khăn. Ngoài ra, việc xác định các đối tượng như lao động tự do trong khu vực phi kết cấu là một thách thức và hiện tượng trục lợi luôn rình rập bởi một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức suy thoái, tham nhũng trong hệ thống chính quyền các cấp.
Sau cùng, gói cứu trợ 62 nghìn tỷ cũng được xác định vào đầu tháng 4/2020, sẽ trợ cấp cho mỗi lao động từ 1 đến 1,2 triệu đồng/tháng. Ở đây, khuyến cáo về chính sách tài khoá, tiết kiệm chi được vận dụng từ cả ngân sách trung ương và địa phương, riêng khoản chi cho các chuyến công tác nước ngoài của công chức, viên chức và hội họp, hội thảo… ‘đã cắt giảm được khoảng 700 tỷ đồng’, Bộ trưởng Tài chính cho biết. Việc huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động từ thiện, cứu trợ cũng được đẩy mạnh. ‘Máy ATM gạo’ là một sáng kiến được cổ vũ và áp dụng.
Đồng thời với chủ trương nới lỏng ‘giãn cách xã hội’ với việc phân chia các địa phương thành 3 nhóm nguy cơ cao, trung bình, thấp, Chính phủ đang ‘tái khởi động’ nền kinh tế bằng các chính sách đầu tư công, tập trung vào các công trình trọng điểm quốc gia. Việc sản xuất thiết bị y tế như máy trợ thở, khẩu trang, nghiên cứu sản xuất bộ xét nghiệm virus… được lưu ý. Tuy nhiên, việc thúc đẩy hoàn thành các bệnh viện dở dang vẫn chưa được nhắc đến.
Theo tôi, Chính phủ cần lưu ý bài học chính sách ‘nóng vội’ phục hồi kinh tế, thúc đẩy tài khoá có thể dẫn tới khủng khoảng tài chính, hay ít nhất là lạm phát tăng cao. Giá tiêu dùng trong quý I và tháng đầu quý 2 đã tăng cao hơn cùng kỳ năm 2019. Một nền kinh tế có thể ‘tự cung tự cấp’ nhu cầu cấp thiết về ăn, mặc, ở… có thể kích thích ‘tâm lý’ ảo tưởng về phục hồi kinh tế.
Chính sách dài hạn về tái cơ cấu kinh tế cần được hoạch định chủ động và tập trung. Ngoài việc gỡ bỏ các biện pháp hành chính kiểu ‘thời chiến’; Chính sách đã từng được ‘Chính phủ kiến tạo’ áp dụng cần khởi động lại, thúc đẩy và được hỗ trợ bởi các chính sách tạo lập các nguyên tắc thị trường, trong đó có sở hữu tư nhân và quyền tài sản; Đa dạng hoá chuỗi cung sản xuất và thị trường tiêu thụ, bớt lệ thuộc vào Trung Quốc cần được xem xét nghiêm túc trong chiến lược phát triển…
Hiệu lực và hiệu quả của chính sách kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc thực thi bởi bộ máy chính quyền các cấp với nhiều cán bộ đảng viên suy thoái, biến chất, lợi ích nhóm, tham nhũng… Nếu đối với chính sách cứu trợ ngắn hạn để phục hồi kinh tế việc trục lợi là nguy cơ hiện hữu, thì đối với chính sách tái cơ cấu kinh tế dài hạn nguy cơ chính là tư tưởng bảo thủ, ý thức hệ giáo điều – một kẻ thù có vẻ vô hình nhưng nguy hiểm.
Kết luận
Người dân Việt từng trải qua những tình huống khẩn cấp, và các nhà hoạch định chính sách thường tự an ủi ‘trong nguy cơ, có cơ hội’, khi bị ‘dồn đến chân tường’ thì ý tưởng chính sách có thể xuất hiện.
Nhiều nhà nghiên cứu chính sách hẳn còn nhớ ‘bài học lịch sử’, kể lại rằng vào đầu những năm 20 của thế kỷ 20, để cứu sự sụp đổ của nền kinh tế và chính quyền nước Nga Xô Viết non trẻ, khi đó lãnh tụ cộng sản V. I. Lê Nin đã bãi bỏ ‘Chính sách Cộng sản Thời chiến’ trưng thu lương thực của nông dân và thay bằng ‘Chính sách Kinh tế Mới’ giải phóng sức sản xuất của người dân.
Nền kinh tế chỉ huy, tập trung, thể hiện bản chất chế độ cộng sản, khó thay đổi trong những điều kiện thời bình.
Đại dịch COVID-19 rồi sẽ qua đi, hậu quả nặng nề là khó tránh khỏi, nhưng hy vọng rằng ‘di chứng’ từ các chính sách ‘thời chiến’ không ‘kéo dài’ ưu thế cho bộ phận lãnh đạo có tư tưởng giáo điều, cơ hội, bảo thủ và sẽ sớm được thay thế bởi các chính sách kinh tế thân thiện với thị trường và phong cách lãnh đạo năng động hướng tới người dân và vì dân.
TS. Phạm Quý Thọ
Gửi từ Hà Nội, ngày 22/04/2020
(RFA)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét