Mỹ đã phá sập VNCH như thế nào?
Lữ Giang (Phần I)
Những tài liệu đã được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và CIA giải mã trong 25 năm qua cho thấy Hoa Kỳ đã dùng những xảo thuật tinh vi để dàn dựng cuộc chiến Việt Nam và rút quân ra. Từ việc giúp xây dựng chế độ Ngô Đình Diệm để đẩy Pháp ra khỏi Đông Dương, thiết lập một chế độ mạnh để ổn định tình hình dưới danh nghĩa chống cộng, sau đó dùng nhóm “xã hội dân sự” Caravelle và lá bài Phật Giáo để loại bỏ chế độ Ngô Đình Diệm và đỗ quân vào Miền Nam VN, được nói là để ngăn chận sự bành trướng của Công Sản… Tất cả đều do CIA tổ chức và chỉ đạo thực hiện.
Kissinger gặp Chu Ân Lai ngày 20.6.1972 tại Bắc Kinh
Từ ngày 2 đến 5.8.1964, Mỹ lại dàn dựng vụ tàu Madox và tàu Terner Joy của Mỹ bị các tiểu đỉnh của Bắc Việt rượt bắn rồi cho 64 phi cơ bắt đầu oanh tạc miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tại Việt Nam.
Cuộc chiến chỉ kéo dài trong 3 năm, từ 1965 đến 1967. Sau khi tiêu thụ hết các võ khí và trang bị quốc phòng cũ còn tồn động từ sau thế chiến thứ hai và thử nghiệm các vũ khí mới, Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Miền Nam bằng một kế hoạch được Kissinger đặt tên là một “Khoảng cách vừa phải”, (Decent Interval): Làm giảm bớt sức mạnh của Cộng quân, đem Miền Nam bán cho Trung Quốc rồi đánh lừa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rút quân “tái phối trí”, làm mất Miền Nam chỉ trong vòng 40 ngày.
Hiện nay, lịch sử chiến tranh Việt Nam đang được tái diễn tại Trung Đông: Mỹ tố cáo Syria tấn công bằng võ khí hóa học và cho xử dụng ngay các biện pháp chế tài không cần mở các cuộc điêu tra và xuất trình bẵng chứng. Nhiều nhà phân tích Âu châu và Mỹ cho rằng đây chỉ là một sự dàn dựng để cứu các phiến quân chống Assad đang bị lâm nguy. Trong bài “Attaque chimique en Syrie: la grande manipulation” (Tấn công bằng hóa chất tại Syria: xảo thuật vĩ đại),Antoine de Lacoste, một nhà bình luận nổi tiếng của Pháp đã viết: “May mắn thay có những người Nga tại chỗ, nếu không Damascus sẽ kết thúc như Baghdad.”
Ngày 20.4.1975, khi Mỹ đang vận động Tổng Thống Trần Văn Hương từ chức và đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm hàng tướng, nhiều nhà lãnh đạo và chánh khách Miền Nam vẫn còn tin rằng Mỹ không bỏ Miền Nam! Mặc dầu đã phải bỏ chạy qua Mỹ, và Mỹ đã thực hiện đối tác toàn diện với nhà cấm quyền CSVN, dùng chính quyền CSVN thay VNCH để ngăn chận Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á, nhiều người Việt đấu tranh vẫn còn tin rằng Mỹ chống cộng và tôn trọng nhân quyền nên luôn coi nhân quyền như một lá bài chủ có thể dùng để lật đổ chế độ trong nước!
Tóm lại, trong khi người Mỹ luôn chiến đấu vì quyền lợi của đất nước họ, đa số người Việt đấu tranh lại đã và đang chiến đấu với các mục tiêu mà mình mong muuốn, hoàn toàn khác với mục tiêu của các đối tác của họ, thường bị Mỹ đánh lừa và biến thành công cụ, nhưng vẫn tin tưởng rằng Mỹ chống cộng. Ai nói hay làm khác họ thường bị coi là tay sai cộng sản hay đặc công cộng sản nằm vùng, do đó ngày chiến thắng chưa bao giờ đến! Trong khi đó, Hà Nội luôn bám sát đường lối, chính sách, chiến lược và chiến thuật của Mỹ, tùy cơ ứng biến để bảo vệ chế độ và trục lợi.
Henry John Temple, Viscount Palmerston (1784 – 1865), từng là Thủ Tướng Anh hai lần, đã nói: “Các quốc gia không có những đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn. chỉ có những quyền lợi vĩnh viễn” (Nations have no permanent allies or enemies, only permanent interests).
Triết gia George Santayana (1863 – 1952) đã nhắc nhở chúng ta:
“Những người không thể nhớ quá khứ bị kết án tái diễn nó. Học từ quá khứ của chúng ta là cách duy nhất có trách nhiệm để chuẩn bị cho chính chúng ta về tương lai, nhất là khi quá khứ đó là chứng tích của thất bại đáng ghi nhớ.”
Vì thế, hôm nay chúng tôi xin tóm lược lại dưới đây những diễn biến đưa tới biến cố 30 tháng 4, 1975 để giúp những người hô hào đấu tranh “giải phóng” quê hương xem lại mình có đi vào vết xe cũ hay không và tìm một hướng đi có hiệu quả hơn.
1.- QUYẾT ĐỊNH BỎ MIỀN NAM VIỆT NAM
Vào tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức, Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina đã cho công bố băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger, trong đó có đề cập đến số phận của miền Nam Việt Nam và cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972. Tổng thống Nixon đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South Vietnam probably can never even survive anyway). Nhưng ông hỏi cố vấn an ninh Henry Kissinger:
“Henry, chúng ta cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao đứng vững (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger trả lời:
“Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao đứng vững nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam Việt Nam” (if it's the result of South Vietnamese incompetence.)
2.- LÂP CÁI MÀ KISSINGER GỌI LÀ “DECENT INTERVAL”
Daniel Ellsberg, người đã từng giữ chức trợ lý Phụ tá Đặc Biệt Bộ Quốc Phòng Mỹ và là người biên soạn tập tài liệu sau này gọi là “Pentagon Papers” đã cho biết như sau: “Trong năm 1968, trong các cuộc nói chuyện riêng tư, Kissinger thường nói rằng mục tiêu thích hợp của chính sách Mỹ là một “khoảng cách vừa phải” (decent interval) – từ hai đến ba năm – giữa sự rút lui của quân đội Mỹ và Cộng Sản chiếm miền Nam.”
Như vậy Mỹ đã quyết định bỏ Việt Nam từ năm 1968 và đã nghĩ cách làm thế nào cho sức mạnh của Cộng quân xuống thấp để khi Mỹ rút, quân đội này phải mất ít nhất là hai hay ba năm mới có thể phục hồi và đánh chiếm Miền Nam được, lúc đó Mỹ không còn chịu trách nhiệm nữa. Kissinger coi việc mất Miền Nam là do sự bất tài của Miền Nam (it’s the result of South Vietnamese incompetence).
Để thực hiện kế hoạch mà Kissinger gọi là “Decent Interval” (Khoảng cách vừa phải), năm 1970 Mỹ cho tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk rồi đưa quân qua phá các mật khu của Cộng quân ở biên giới Việt – Miên. Năm 1971, Mỹ mở cuộc hành quân Dewey Canyon II do Tướng James W. Sutherland, Jr soạn thảo, phía VNCH gọi là cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mục tiêu của cuộc hành quân này là tiến vào mật khu 604 ở gần Tchepone để gài bẫy các sư đoàn 304, 308, 320 và 324 của Cộng quân bao vây rồi dùng B52 tiêu điệt. Nhưng kế hoạch này bị thất bại vì Tổng Thống Thiệu đột nhiên nhúng tay vào với kết quả rất bi thảm.
Năm 1972, Mỹ phải gài cho Cộng quân chiếm cổ thành Quảng Trị để tiêu diệt. Lúc đầu Cộng quân chỉ cho các đơn vị của các sư đoàn 312, 320 và 325 vào, còn sư đoàn thiện chiến 308 vẫn đóng ngoài. Ngày 4.9.1972 khi sư đoàn 308 phải bỏ chiến trường Thạch Hãn rút về phía cổ thành Quảng Trị, tức tách ra khỏi thế cài răng lược với sư đoàn Dù của VNCH, Mỹ đã xử dụng hỏa lực tối đa san bằng cổ thành nầy và xóa sổ sư đoàn 308. Để thực hiện mục tiêu này Mỹ phải kéo dài cuộc chiến đến 81 ngày với 90 đợt oanh kích bằng máy bay B52.
Hà Nội không nắm vững kế hoạch “Decent Interval” của Mỹ nên đã nướng một số quân rất lớn.
3.- KISSINGER ĐI BẮC KINH GIAO MIỀN NAM CHO TRUNG QUỐC
Hôm 26.5.2006, Văn Khố An Ninh Quốc Gia (National Security Archive) của Hoa Kỳ đã cho phổ biến 2.100 bản văn (memoranda) dài 28.000 trang mang tên “The Kissinger Transcripts: A Verbatim Record of U.S. Diplomacy, 1969-1977”. Trong đống hồ sơ này có 6 tài liệu liên quan đến Việt Nam, đó là các tài liệu số 1, 2, 3, 10, 11 và 12. Vì tài liệu quá dài, chúng tôi chỉ trích dẫn một đoạn ghi lại cuộc đàm thoại mặt đối mặt giữa Kissinger và Chu Ân Lai ngày 20.6.1972 tại Bắc Kinh trong tài liệu số 10 (dài 37 trang), trong đó có đoạn Kissinger nói với Thủ Tướng Chu Ân Lai như sau:
“Hôm nay tôi ngồi ở đây chứng tỏ cái căn bản dựa trên đó Hoa Kỳ đưa quân vào Đông Dương không còn giá trị nữa. Chúng tôi thừa hưởng một chính sách và bây giờ chúng tôi phải thanh lý thế nào để không ảnh hưởng đến vị thế của chúng tôi trên thế giới và sự ổn định trong nước. Chúng tôi thật tâm muốn chấm dứt cuộc chiến này. Và ông thủ tướng biết từ năm 1967 tôi đã mở đầu cuộc thương thuyết với Hà Nội. Và trước đây tôi đã nói với ông thủ tướng rằng chúng tôi quan niệm nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là một thực tế mạnh nhất tại bán đảo Đông Dương. Chúng tôi không có lợi gì làm tan vỡ hay đánh bại thực thể đó. Sau khi chúng tôi rút quân xong, chúng tôi ở xa 12.000 dặm trong khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ cách Sài gòn 300 dặm. Tôi không hiểu tại sao Hà Nội không thấy được sự việc đó.”
Kissinger nói tiếp:
“Trước đây tôi đã nói với ông thủ tướng rằng chúng tôi không muốn duy trì một căn cứ quân sự nào tại Đông Dưong hoặc theo đuổi chính sách của vị ngoại trưởng không chịu bắt tay ông thủ tướng. Thời đại đó qua rồi. Và tôi tin rằngtương lai quan hệ giữa Hoa Kỳ và Bắc Kinh quan trọng đối với Á châu hơn là những gì có thể xẩy ra tại Phnom penh, Hà Nội hay Sài gòn.”
4.- ÉP VNCH KÝ HIỆP ĐỊNH PARIS.
Một cuộc hòa đàm để chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Paris từ năm 1968. Sau một thời gian dài tranh luận gay cấn, một bản dự thảo hiệp định chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được Washington và Hà Nội đồng ý. Ngày 18.10.1972 Kissinger đã bay đến Saigon làm áp lực Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải đồng ý nội dung bản dự thảo nầy, với hy vọng sẽ mang ra Hà Nội ngày 24.10.1972 để Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký tắt vào. Nhưng Kissinger đã thất bại. Chỉ trong một thời gian ngắn, phía VNCH đã phát hiện ra đến 23 điểm cần phải điều chỉnh. Kissinger chỉ đồng ý điều chỉnh 16 điểm không quan trọng mà thôi. Số còn lại phải để nguyên. Cuộc đối thoại trở nên gay cấn về hai điểm then chốt là việc chấp nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam Việt Nam và việc thành lập một Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp giống như một chính phủ liên hiệp. VNCH coi đây là một cách bán đứng miền Nam Việt Nam cho Hà Nội nên cương quyết chống lại.
Thất bại với VNCH, Kissinger đưa ra một bản dự thảo mới, yêu cầu Hà Hội tái thảo luận, nhưng Hà Nội từ chối. Tổng Thống Nixon liền gởi cho Hà Nội một thông điệp nói rằng nếu Hà Nội không chấp nhận thảo luận một cách nghiêm chỉnh thì sau 72 tiếng đồng hồ nữa Hoa Kỳ sẽ ném bom trở lại từ vĩ tuyến 20 trở lên. Ngày 18.12.1972, khi thời hạn này chấm dứt, hàng loạt B.52 đã bay đến ném bom xuống các căn cứ quân sự ở Hãi Phòng và Hà Nội. Đây là những khu vực chưa hề là mục tiêu đánh phá từ trước đến nay.
Cùng lúc đó, Tướng Haig được cử đến Saigon với sứ mạng vừa hứa hẹn vừa đe dọa. Trong thông điệp trao cho Tổng Thống Thiệu ngày 14.11.1972, Tổng Thống Nixon có cam kết: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”Nhưng Tướng Haig cũng không quên lặp lại lời đe dọa của Washington rằng nếu Tổng Thống Thiệu không chấp nhận bản dự thảo hiệp định mới, Hoa Kỳ sẽ cắt hết việt trợ và ký một hiệp định riêng với Bắc Việt.
Sau 12 ngày bị dội bom nặng nề, Hà Nội chấp nhận thảo luận lại thỏa hiệp cũ với Kissinger vào ngày 30.12.1972. Hà Nội đồng ý sửa đổi lại một số điều khoản trong dự thảo hiệp định, nhất là không còn coi Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp như là một thứ chính phủ liên hiệp từ trung ương đến địa phương nữa, nhưng nhất quyết không chấp nhận điều khoản buộc quân Bắc Việt phải rút lui. Hoa Kỳ quay lại làm áp lực với Việt Nam Cộng Hòa.
Tổng Thống Thiệu thừa biết Bắc Việt cố giữ lại điều khoản không rút quân để khi Hoa Kỳ rút hết, họ sẽ mở cuộc tấn công trở lại, nhưng bị ám ảnh bởi cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi Mỹ muốn đem quân vào, Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh cho ký kết bản Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973, sau khi Washington tăng thêm một số quân dụng được tiếp tế khẩn cấp qua chương trình Enhance và Enhance Plus.
5.- HÀ NỘI LẬP KẾ HOẠCH ĐÁNH CHIẾM MIỀN NAM
Sau khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội lập ngay kế hoạch đánh chiếm Miến Nam. Theo kế hoạch này, muốn chiếm miền Nam một cách nhanh chóng phải đánh thẳng vào Sài Gòn, đầu não của miền Nam, bỏ qua các tỉnh miền Trung. Trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” xuất bản năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng đã viết:
“Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công trình xây dựng con đường chiến lược Đông Trường Sơn bắt đầu từ năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975 được xúc tiến với nhịp độ hết sức khẩn trương nối liền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000 kilô mét...
“Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 kilô mét ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, vượt cả sông, suối sâu, núi cao, có ngọn hơn 1000 mét, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục ngàn xe các loại vào, ra trên đường...”
Khi sửa chữa lại con đường 14 do người Pháp làm, thường được Hà Nội gọi là đường Đông Trường Sơn, có hai cái chốt phải nhổ mới có thể khai thông được, đó là THƯỜNG ĐỨC ở phía tây Đà Nẵng và ĐỨC LẬP, ở phía tây Ban Mê Thuột. Trong cuốn “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” Tướng Trần Văn Trà cho biết vào tháng 10 năm 1974, ông và Phạm Hùng ra Bắc họp, Bộ Chính Trị đã ra lệnh tại Nam Tây Nguyên phải mở hành lang chiến lược đoạn Đức Lập cho thông suốt. Năm 1976 sẽ bắt đầu đánh lớn.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và bộ tham mưu của ông không hề hay biết gì đến chiến lược này nên không có kế hoạch bảo vệ Thường Đức và Đức Lập để ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân.
6.- MỸ ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có kể lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo của Tướng John Murray do Bộ Tổng Tham Mưu trình lên, trong đó ghi những điểm mà ông nhớ được như sau:
- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt…
Tướng John E. Murray là người lãnh đạo Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự (Defense Attaché Office –DAO) của Mỹ tại Việt Nam từ tháng 1/1973 đến tháng 8/1974 và Tướng Homer D. Smith là người sau cùng. Thông thường, các báo cáo của DAO không hề được tiết lộ cho chính phủ VNCH biết, tại sao nó lại lọt vào Bộ Tổng Tham Mưu? Phải chăng Hoa Kỳ muốn dụ Tổng Thống Thiệu bỏ Quân Khu I và Quân Khu II? Theo nội dung ông Nguyễn Tiến Hưng nhớ được, chúng ta thấy đây chỉ là một bản phân tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được đề nghị. Nhưng Tổng Thống Thiệu lại dựa vào đó để quyết định số phận của Miền Nam!
Khi số viện trợ rút xuống còn 700 triệu, ông quyết định chỉ giữ phần đất từ Tuy Hoà trở vào và giao cho Trung Tướng Đặng Văn Quang và Chuẩn Tướng Ted Serong (một tướng chống du kích người Úc) lập kế hoạch hình thành một phòng tuyến mới từ Tuy Hoà đến Tây Ninh và gọi đó là chiến lược “DẦU BÉ ĐÍT TO” hay “Từng chiến lược cho từng mức viện trợ” và “tái phối trí”, đó là bỏ Vùng I và Vùng II, rút quân về lập phòng tuyến ở Tuy Hòa.
Cuối năm 1974, kế hoạch này đã được tiết lộ tại Sài Gòn. Tôi nhớ một số nhà chính trị đã họp tại văn phòng Luật sư Mai Văn Lễ ở đường Pasteur để bàn về tin đồn này. Tất cả đều đi đến kết luận rằng kế hoạch đó nếu có sẽ là một kế hoạch bất khả thi vì hai lý do: Lý do thứ nhất, Tuy Hòa không phải là địa thế có thể làm phòng tuyến, nhất là sau khi bỏ Cao Nguyên. Lý do thứ hai, việc rút quân không thể thực hiện được, trừ khi có một hiệp định phân chia lại lãnh thổ và rút quân như Hiệp Định Genève năm 1954. Không ngờ chuyện đó lại có thật! Ông Thiệu vì yếu kém cả về chính trị lẫn quân sự, đã theo đuổi một kế hoạch không tưởng, làm mất Miền Nam chỉ trong 40 ngày.
Ngày 7.8.1974 Thường Đức bị mất.
Ngày 6.1.1975 Phước Long thất thủ.
Ngày 9.3.1975 Cộng quân chiếm Đức Lập và ngày 10.3.1975 chiếm Ba Mê Thuột.
Sau khi Ban Mê Thuột bị thất thủ, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú và ra lệnh rút khỏi Kontum và Pleiku. Ông Thiệu nói rằng “phải rút nhanh để tập trung quân phản kích lấy lại Ban Mê Thuột theo đường 21, lấy Khánh Dương làm bàn đạp.” Con đường để rút là Liên Tỉnh Lộ 7B nối liền Pleiku và Phú Yên vì không còn con đường nào khác. Đây là một con đường đã bị bỏ từ lâu.
Để bảo đảm bí mật tuyệt đối, Tổng Thống Thiệu ra lệnh không làm văn bản, chỉ truyền khẩu lệnh, cấm không tiết lộ cho Mỹ biết. Cũng không được tiết lộ cho địa phương quân và các tiểu khu, tức là bỏ các đơn vị này. Đây là một cuộc rút quân bi thảm nhất trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc rút quân bắt đầu từ ngày 15.3.1975 đến ngày 20 thì tan rã.
Theo tài liệu của Hà Nội, trong cuộc rút quân khỏi Cao Nguyên, họ đã loại khỏi vòng chiến 28.514 sĩ quan và binh sĩ QLVNCH, trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 bị bắt làm tù binh, trong đó có 779 sĩ quan. Họ đã thả ra 7.190 người.
Tài liệu của VNCH ước lượng trong khoảng 160.000 người chạy theo đoàn xe di tản, chỉ có khoảng 60.000 tới được Tuy Hòa. Số còn lại chết trong rừng hay phải quay trở lại Pleiku. Sáu Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân với khoảng 7.000 quân, chỉ có 900 về đến Nha Trang và đóng trong thành phố.
Ngày 19.3.1975 thành phố Quảng Trị bị thất thủ.
Ngày 25.3.1975 Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng rút khỏi thành phố Huế. Đoàn quân di tản bị đánh chận ở đèo Hải Vân, cửa Tư Hiền và cửa Thuận An nên tan rã.
Ngày 29.3.1975 thành phố Đà Nẵng, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, bị tấn công và thất thủ. Rối loạn xảy ra. Tướng Ngô Quang Trưởng phải bơi ra khơi để được một tàu Hãi Quân vớt.
Ngày 31.3.1975, thành phố Quy Nhơn và Nha Trang rơi vào tay Cộng Quân.
Ngày 1.4.1975, thành phố Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên bi thất thủ.
Ngày 15.4.1975 phòng tuyến Phan Rang được thiết lập do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy. Nhưng ngày 15 Cộng quân đã chiếm Phan Rang, Tướng Vĩnh Nghi bị bắt.
Đêm 20 rạng ngày 21.4.1975, Sư Đoàn 18 bảo vệ Xuân Lộc được lệnh rút về bảo vệ Sài Gòn.
(Xin xem tiếp Phần II trong bài sau)
Lữ Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét