Thứ Tư, 26 tháng 12, 2018

Số phận của một kẻ được 100% phiếu tín nhiệm

Năm 1989, mình ở Pháp, hàng ngày đều bật tivi xem truyền hình trực tiếp các sự kiện lịch sử ở Romania, nhất là phiên xử án và xử bắn nhà độc tài Ceaușescu, tường thuật kéo dài nhiều giờ, không ai muốn rời khỏi màn hình. Đều là những cảnh tỉnh nghiêm khắc với những người ghét dân chủ và thích độc tài. Tuy nhiên, chỉ người dân sống ở những dân chủ mới được biết và học được bài học này, chứ ở VN thì không. Mình thích đoạn này: Ceaușescu đã tạo ra một sự sùng bái cá nhân lớn, tự trao cho mình các danh hiệu "Conducător" ("Lãnh tụ") và "Geniul din Carpați" ("Thiên tài của người Carpathian"), với sự hỗ trợ của các nhà thơ Văn hoá Vô sản (Proletkult) như Adrian Păunescu và Corneliu Vadim Tudor, và thậm chí còn có cả một vương trượng kiểu nhà vua cho riêng mình. Để tránh những hành động phản bội mới như kiểu Pacepa, Ceaușescu đã đưa vợ mình Elenacùng các thành viên khác trong gia đình vào các chức vụ trong chính phủ...
Số phận của một kẻ được 100% phiếu tín nhiệm
Lê Công Định - Cách đây tròn 29 năm, ngày 25 tháng 12 năm 1989, Nicolae Ceaușescu, nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Romania, cùng vợ, đã bị xử bắn sau khi đào thoát bất thành từ cuộc nổi dậy của nhân dân Romania lật đổ chế độ cộng sản, cùng dòng chảy với trào lưu Đông Âu cuối thập niên 80 của thế kỷ 20.

Nicolae Ceaușescu sinh ngày 26 tháng 1 năm 1918, giữ chức vụ Tổng Bí thư Đảng Lao động Romania, sau này là Đảng Cộng sản Romania từ năm 1965 đến năm 1989, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước từ năm 1967 và Tổng thống Romania từ năm 1974 đến năm 1989. Thời kỳ cầm quyền của ông có đặc trưng giống tất cả các thể chế cộng sản khác là tệ sùng bái cá nhân, quan chức dốt nát, bộ máy hành chính quan liêu và tham nhũng, và kinh tế yếu kém.
Khi nào đến Việt Nam?
Chế độ Ceaușescu sụp đổ sau một loạt sự kiện bạo lực tại Timișoara và Bucharest tháng 12 năm 1989. Tháng 11 năm 1989, Đại hội lần thứ 14 Đảng Cộng sản Romania (PCR) chứng kiến Ceaușescu, khi ấy 71 tuổi, tái đắc cử một nhiệm kỳ lãnh đạo 5 năm nữa.

Timișoara

Những cuộc tuần hành ở thành phố Timișoara phát sinh bởi nỗ lực được chính phủ ủng hộ nhằm đuổi László Tőkés, một Mục sư người Hungary, bị chính phủ buộc tội gây ra sự căm ghét sắc tộc. Các thành viên giáo đoàn Hungary bao vây căn nhà của ông để bày tỏ sự ủng hộ.
Các sinh viên Romania tự động gia nhập cuộc tuần hành, và nó nhanh chóng thoát ly khỏi nguyên nhân ban đầu và trở thành một cuộc tổng tuần hành chống chính phủ. Các lực lượng quân độicảnh sát và Securitate nổ súng vào những người biểu tình ngày 17 tháng 12 năm 1989. Ngày 18 tháng 12, Ceaușescu lên đường đi thăm Iran, giao lại trách nhiệm đàn áp cuộc nổi loạn Timișoara cho các thuộc cấp và vợ. Ngay khi ông quay trở về ngày 20 tháng 12, tình hình thậm chí còn căng thẳng hơn, và ông đã có một bài phát biểu trên truyền hình từ phòng phát sóng bên trong Toà nhà Uỷ ban Trung ương (CC Building), trong đó ông nói về các sự kiện tại Timișoara như một "sự can thiệp của các lực lượng nước ngoài vào công việc nội bộ của Romania" và một sự "tấn công từ bên ngoài vào chủ quyền của Romania".
Cả nước, vốn không biết gì về các sự kiện ở Timișoara từ truyền thông nhà nước, chỉ biết được qua các đài nước ngoài như Voice of America và Radio Free Europevà truyền khẩu. Một cuộc tụ họp lớn được lên kế hoạch cho ngày hôm sau, ngày 21 tháng 12, mà theo truyền thông chính thức, được gọi là một "phong trào tự phát ủng hộ Ceaușescu", giống cuộc meeting năm 1968 trong đó Ceaușescu đã phát biểu chống lại cuộc xâm lược Tiệp Khắc của các lực lượng Khối Warszawa.

Lật đổ

Ngày 21 tháng 12, cuộc tụ họp lớn, được tổ chức tại nơi giờ là Quảng trường Cách mạng, biến thành sự hỗn loạn. Hình ảnh Ceaușescu vô cảm trước sự la ó của đám đông là một trong những khoảnh khắc mạnh mẽ nhất về sự sụp đổ của Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Vợ chồng nhà độc tài, không thể kiểm soát nổi đám đông, cuối cùng phải ẩn trốn trong toà nhà, và họ tiếp tục ở đó tới ngày hôm sau. Cả ngày hôm đó tiếp tục là cuộc nổi dậy của người dân Bucharest, vốn đã chiếm Quảng trường Đại học và xung đột với cảnh sát và quân đội tại các trạm gác. Những sự kiện đầu tiên này ngày nay được coi là một cuộc cách mạng thực sự. Tuy nhiên, những người biểu tình không vũ trang không đương đầu nổi với lực lượng quân đội tập trung tại Bucharest, nửa đêm hôm ấy quân đội đã dẹp yên đường phố và bắt giữ hàng trăm người.
Dù được quảng cáo là "cuộc tụ họp ủng hộ" và những sự kiện sau đó trên truyền hình quốc gia đã bị cắt từ ngày hôm trước, phản ứng của Ceaușescu trước các sự kiện đã trở thành một phần trong ký ức quốc gia. Tới sáng ngày 22 tháng 12 năm 1989, người nổi dậy đã tràn tới mọi thành phố lớn. Cái chết đầy nghi vấn của Vasile Mileabộ trưởng quốc phòng, được thông báo trên truyền thông. Ngay sau đó, Ceaușescu chủ trì cuộc họp của CPEX và nắm quyền chỉ huy quân đội. Ông đưa ra một nỗ lực nhằm giải tán đám đông tụ tập trước toà nhà Uỷ ban Trung ương, nhưng hành động này bị những người nổi dậy bác bỏ, họ buộc mở cửa toà nhà, khi ấy đã không còn được bảo vệ. Vợ chồng Ceaușescu bỏ trốn bằng trực thăng sau một quyết định sai lầm (bởi họ vẫn có thể trú ẩn an toàn trong đường hầm ngầm) [xem Dumitru Burlan].
Trong quá trình cuộc cách mạng, báo chí phương Tây đã ước tính số người chết bởi lực lượng cảnh sát mật ủng hộ Ceaușescu. Con số này tăng nhanh chóng tới mức 64,000 người chết và được đưa rộng rãi trên trang nhất các tờ báo. Tuỳ viên quân đội Hungary thể hiện sự nghi ngờ con số trên, chỉ ra rằng cần phải có rất nhiều thiết bị hậu cần để có thể giết một số lượng người lớn như vậy trong một thời gian ngắn. Sau cái chết của Ceaușescu một thông báo về số lượng thương vong được tính trên toàn quốc cho thấy số người chết thực tế chưa tới một nghìn và có thể còn thấp hơn nữa.[7]

Hành quyết

Mộ Nicolae Ceaușescu tại nghĩa trang Ghencea
Ceaușescu và vợ Elena đã bỏ chạy khỏi thủ đô với Emil Bobu và Manea Mănescu và đi tới ngôi nhà của Ceaușescu tại Snagov, từ đó họ tiếp tục đi tới Târgoviște. Gần Târgoviște, họ bỏ lại chiếc trực thăng, đã bị quân đội hạ lệnh hạ cánh, khi ấy chiếc máy bay cũng bị giới hạn chỉ bay trong không phận Romania. Vợ chồng Ceaușescu bị cảnh sát bắt giữ, khi những người cảnh sát nghe tin qua radio. Cuối cùng cảnh sát giao hai vợ chồng cho quân đội. Ngày 25 tháng 12, hai người bị một toà án quân sự xử tử hình vì tội từ làm giàu trái phép cho tới diệt chủng, và đã bị hành quyết tại Târgoviște. Đội quay phim ghi lại các sự kiện đã bỏ lỡ cảnh hành quyết bởi việc này diễn ra quá nhanh.[8]
Vợ chồng Ceaușescu bị một đội hành quyết bắn, mà theo tin đồn là có hàng trăm người tình nguyện tham gia, gồm cả binh sĩ thuộc trung đoàn dù tinh nhuệ Ionel Boeru, Dorin Cârlan và Octavian Gheorghiu bằng dùng súng trường. Đội hành quyết không cần đợi việc trói và bịt mắt hai vợ chồng, như truyền thống dành cho người bị hành quyết theo cách đó, mà đơn giản bắn ngay khi họ xuất hiện. Sau khi vụ xử bắn kết thúc, thân thể hai vợ chồng bị phủ vải bạt. Cuộc xử án vội vã và những hình ảnh về cái chết của hai vợ chồng Ceaușescu đã được ghi lại và phát sóng ngay sau đó ở nhiều quốc gia phương tây. Đoạn băng xử án và những hình ảnh thân thể (nhưng không có đoạn hành quyết) đã được chiếu cùng ngày hôm ấy trên TV cho công chúng Romania.[9][10]
Mộ của vợ chồng Ceaușescu nằm ở nghĩa trang Ghencea tại Bucharest. Nicolae và Elena được chôn ở hai phía đối diện một con đường. Những ngôi mộ khá khiêm tốn, nhưng thường được phủ hoa và các biểu tượng của chế độ của họ. Một số người cho rằng, trên thực tế những ngôi mộ là mộ giả. Tháng 4 năm 2007, con trai họ đã thua một vụ kiện yêu cầu điều tra vụ việc. Người con trai cả Nicu Ceaușescu, chết năm 1996, và được chôn gần đó trong cùng nghĩa địa. Theo Jurnalul Național,[11]những yêu cầu đã được người con gái và những người ủng hộ quan điểm của họ đưa ra để dời họ tới các lăng mộ hay nhà thờ được xây dựng riêng cho họ, nhưng những yêu cầu đó bị chính phủ bác bỏ.

Sùng bái cá nhân và chủ nghĩa độc tài[sửa | sửa mã nguồn]

Ceaușescu đã tạo ra một sự sùng bái cá nhân lớn, tự trao cho mình các danh hiệu "Conducător" ("Lãnh tụ") và "Geniul din Carpați" ("Thiên tài của người Carpathian"), với sự hỗ trợ của các nhà thơ Văn hoá Vô sản (Proletkult) như Adrian Păunescu và Corneliu Vadim Tudor, và thậm chí còn có cả một vương trượng kiểu nhà vua cho riêng mình. Những sự thái quá đó đã khiến họa sĩ Salvador Dalí gửi một điện tín chúc mừng tới "Conducător", tờ báo hàng ngày của Đảng Cộng sản Scînteia đã đưa tin về việc này mà không biết rằng nó chỉ là một hành động trào phúng. Để tránh những hành động phản bội mới như kiểu Pacepa, Ceaușescu đã đưa vợ mình Elenacùng các thành viên khác trong gia đình vào các chức vụ trong chính phủ.

Quản lý nhà nước

Với các lãnh đạo Khối hiệp ước Warszawa, 1987 (từ trái qua phải): Husák của Tiệp Khắc, Zhivkov của Bulgaria, Honecker của Đông Đức, Gorbachev của Liên bang Xô viết, Ceaușescu, Jaruzelski của Ba Lan, và Kádár của Hungary
Dưới thời Ceaușescu, Romania là nước xuất khẩu vũ khí hàng thứ tư châu Âu. Ông đã có những nỗ lực hoạt động trung gian giữa PLO và Israel. Ông đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý thành công để giảm bớt kích thước Quân đội Romania 5% và tổ chức những cuộc tuần hành lớn vì hoà bình.
Ceaușescu đã tìm cách đóng một vai trò ảnh hưởng và hướng dẫn cho các quốc gia Nam Mỹ. Ông là đồng minh thân cận và là một người bạn của nhà độc tài Tổng thống Mobutu Sese Seko của Zaïre. Trên thực tế các mối quan hệ không phải giữa nhà nước-nhà nước, mà là đảng-đảng giữa MPR và Đảng Cộng sản Romania. Nhiều người tin rằng cái chết của Ceaușescu đóng vai trò lớn gây ảnh hưởng tới quá trình "dân chủ hoá" của Mobutu tại Zaïre năm 1990.[12]Tương tự, Pháp đã trao cho Ceaușescu quy chế thành viên Quân đoàn Danh dự và vào năm 1978 ông trở thành một Hiệp sĩ Danh dự Anh[13] (GCB, đã bị bãi bỏ) tại Anh Quốc, trong khi bà Elena Ceaușescu, một người không có nhiều kiến thức được xoay xở để 'được bầu' làm thành viên của Viện hàn lâm Khoa học tại Hoa Kỳ; tất cả những việc đó và cả những việc khác nữa, đều được vợ chồng Ceaușescu sắp xếp để tuyên truyền thông qua các tuỳ viên văn hoá tại các Đại sứ quán Romania tại các nước liên quan.
Nước Romania thời Ceaușescu là quốc gia duy nhất trong Khối hiệp ước Warszawa không hạ cấp quan hệ với Chile sau cuộc đảo chính năm 1973 của Augusto Pinochet.[14]

Yếu kém

Sự kiểm soát của Ceaușescu với mọi mặt đời sống tôn giáo, giáo dục, thương mại, xã hội và đời sống dân sự[15] càng làm trầm trọng thêm tình hình. Năm 1987, một nỗ lực tổ chức bãi công tại Brașov thất bại: quân đội chiếm giữ các nhà máy và đàn áp những người biểu tình.
Trong suốt năm 1989, Ceaușescu càng tách biệt hơn với thế giới Cộng sản: vào tháng 8 năm 1989, ông đề xuất một hội nghị thượng đỉnh để bàn bạc về các vấn đề của Chủ nghĩa Cộng sản châu Âu và bảo vệ chủ nghĩa xã hội tại các quốc gia đó, nhưng đề xuất của ông bị các quốc gia Khối hiệp ước Warszawa và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bác bỏ. Thậm chí cả sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và sự rút lui của những người đồng chí thân cận của Ceaușescu lãnh đạo Cộng hoà Dân chủ Đức Eric Honecker, từ chức, và lãnh đạo Bulgaria Todor Zhivkov, bị thay thế tháng 11 năm 1989, Ceaușescu vẫn bỏ qua mối đe doạ với vị trí của mình như vị lãnh đạo cộng sản cuối cùng ở Đông Âu.

Khác

Con trai, Ion Iliescu, và Nicolae Ceaușescu năm 1976
Nicolae và Elena Ceaușescu có ba con, Valentin Ceaușescu (sinh năm 1948) một nhà vật lý hạt nhân, Nicu Ceaușescu (1951 - 1996) cũng là một nhà vật lý, và một con gái Zoia Ceaușescu (1949 - 2006), một nhà toán học. Sau cái chết của cha mẹ, Nicolae Ceaușescu ra lệnh xây dựng một nhà thờ Chính thống, những bức tường nhà thờ được trang trí bằng những bức chân dung cha mẹ ông.[11]
Ceaușescu là người duy nhất được nhận Order of the Elephant của Đan Mạch rồi bị rút lại. Việc này xảy ra ngày 23 tháng 12 năm 23, 1989, khi HM Nữ hoàng Margrethe II ra lệnh thu hồi phù hiệu về Đan Mạch, và xoá bỏ tên Ceaușescu khỏi văn bản lưu trữ.
Tương tự Ceaușescu cũng bị tước danh hiệu vinh dự GCB (Knight, Grand Cross of the Bath) bởi Nữ hoàng Elizabeth II của Vương quốc Anh ngay ngày trước khi ông bị hành quyết. Nữ hoàng Elizabeth cũng trả lại Huân chương mà nhà nước Romania đã trao cho bà.[16]
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh của mình năm 1988 Ceaușescu được lãnh đạo Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức Erich Honecker trao tặng Karl-Marx-Orden; qua việc này ông được trao tặng vì đã từ chối các cuộc cải cách của Mikhail Gorbachev.
Theo một cách tương tự với một số quốc gia Liên minh châu Âu, việc ca tụng các tội ác của các chế độ chuyên chế và bôi nhọ các nạn nhân của chúng bị cấm theo luật pháp Romania; điều này gồm cả chế độ Ceaușescu. Dinel Staicu đã bị phạt 25,000 lei (xấp xỉ 9,000 dollar Mỹ) vì ca tụng Ceaușescu và trưng bày các bức hình của ông trên kênh truyền hình tư nhân (3TV Oltenia).[17]
Ngày cuối cùng nắm quyền lực của Ceaușescu đã được soạn thành một bản nhạc, The Fall of Ceaușescu, viết và sáng tác bởi Ron Conner. Nó được trình diễn lần đầu tại Los Angeles Theater Center tháng 9 năm 1995 và có cả Ion Iliescu tham dự, khi ấy ông là Tổng thống Romania và đang ở thăm Los Angeles.

"Chủ nghĩa Ceaușescu"[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy thuật ngữ Chủ nghĩa Ceaușescu đã được sử dụng rộng rãi bên trong Romania, thường có nghĩa miệt thị, nó không bao giờ có được tư cách hàn lâm. Điều này có thể giải thích khi nhìn theo quan điểm về sự thô thiển và hổ lốn của tín điều. Ceaușescu đã tìm cách đưa các quan điểm của mình vào trong một học thuyết Marxistchủ chốt, thêm vào đó niềm tin của ông ở một "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển đa bên" một giai đoạn cần thiết mới giữa các ý tưởng Marxist về các xã hội Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản (một quan điểm chủ chốt cho rằng lý do chính cho sự trung gian là sự biến mất của các cơ cấu Nhà nước và Đảng trong Chủ nghĩa Cộng sản). Một cuốn Bách khoa Toàn thư Romania năm 1978 đã tìm cách nhấn mạnh ý tưởng này là "một giai đoạn mới, vượt trội trong sự phát triển xã hội chủ nghĩa của Romania [...] bắt đầu bằng Kế hoạch 5 năm 1971-1975 [sic], kéo dài nhiều [kế tiếp và dự đoán] Kế hoạch 5 năm".[18]
Ý tưởng chủ chốt trong đó là một hình thức chủ nghĩa quốc gia Romania,[19] một yếu tố có lẽ đã giúp đưa Ceaușescu lên nắm quyền lực năm 1965, và có lẽ có giá trị với giới lãnh đạo Đảng xung quanh Ion Gheorghe Maurer lựa chọn ông thay cho một Gheorghe Apostol hơi quá chính thống. Dù trước đó từng là kẻ ủng hộ cẩn trọng của các sách lược chính thức, Ceaușescu đã chuyển sang thực hiện mong muốn của xã hội Romania về sự độc lập sau cái được nhiều người coi là những năm thuộc quyền chỉ đạo và thanh trừng của Liên Xô, trong và sau sự thất bại SovRom. Ông đã thực hiện ý tưởng quốc gia này trong Đảng, ủng hộ nó chống lại người đã được chỉ định kế vị Apostol. Chính sách quốc gia này không phải không có sự tham gia của nhà chính trị rụt rè trước đó:[20] ví dụ, chế độ Gheorghiu-Dej đã thành công trong việc thuyết phục Hồng quân rút đi năm 1958.
Tương tự, chế độ đã sắp xếp xuất bản nhiều tác phẩm gây ảnh hưởng tới hình ảnh Nga và Xô viết, như các tập cuối cùng của bộ lịch sử chính thức Lịch sử Romania, không bưng bít những điểm căng thẳng truyền thống với Nga và Liên bang Xô viết (thâm chí nói bóng gió tới sự hiện diện trái phép của Liên Xô tại Bessarabia). Trong những năm cầm quyền cuối cùng của Gheorghiu-Dej nhiều vấn đề được công khai, với sự xuất bản một tuyển tập tác phẩm Karl Marx đề cập tới các chủ đề của Romania, thể hiện các quan điểm của Marx trước kia đã bị kiểm duyệt và không dễ chịu về chính trị với Nga.
Tuy nhiên, Ceaușescu đã chuẩn bị để tiến hành một bước quan trọng hơn khi đặt nghi ngờ về các chính sách của Nga. Trong những năm đầu cầm quyền, ông nói chung thả lỏng áp lực chính trị bên trong xã hội Romania,[21] khiến hồi cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 là thập kỷ tự do nhất trong chế độ Cộng sản Romania. Giành được sự tin tưởng của dân chúng, Ceaușescu giữ quan điểm rõ ràng chống lại cuộc nổi dậy Mùa xuân Praha năm 1968 của Leonid Brezhnev. Sau một cuộc viếng thăm của Charles de Gaulle đầu năm ấy (trong đó Tổng thống Pháp công nhận sự ly khai mới bắt đầu), bài phát biểu của Ceaușescu trước công chúng trong tháng 8 khiến mọi người ấn tượng mạnh, không chỉ bởi các chủ đề của nó, mà bởi cả sự thực nó không hề được chuẩn bị trước. Ông ngay lập tức giành được thiện cảm của phương Tây và được họ ủng hộ, cho tới khi giai đoạn tự do trong thời cầm quyền của ông chấm dứt; cùng lúc ấy, một nguy cơ được đặt ra là sự xâm lược quân sự của Liên Xô: đáng chú ý, nhiều thanh niên bên trong Romania đã gia nhập Vệ binh Yêu nước được thành lập để đương đầu với mối đe doạ.[22]Tổng thống Richard Nixon được mời tới Bucharest năm 1969, đây là chuyến thăm đầu tiên của Tổng thống Hoa Kỳ tới một quốc gia Cộng sản.
Phiên bản Chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người của Alexander Dubček không bao giờ thích hợp với các mục tiêu cộng sản của Romania. Ceaușescu trong một thời gian ngắn thấy mình đi cùng Dubček tại Tiệp Khắc và Josip Broz Tito tại Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Tình bạn với Tito kéo dài tới thập niên 1980, khi Ceaușescu chấp nhận học thuyết Titoist "phát triển xã hội chủ nghĩa độc lập" để thích ứng với các mục tiêu riêng của ông. Romania tự tuyên bố mình là một nhà nước Cộng hoà "Xã hội chủ nghĩa" (thay cho "Nhân dân") để thể hiện rằng họ đang thực hiện các mục tiêu của Marx mà không cần sự giám sát của Moscow.
Hệ thống này làm trầm trọng hơn các nét tiêu biểu quốc gia của nó, ngày càng pha trộn với các tư tưởng Juche và Mao. Năm 1971, Đảng, vốn đã hoàn toàn thanh trừng sự chống đối nội bộ (có lẽ ngoại trừ Gheorghe Gaston Marin),[20] phê duyệt Luận cương tháng 7, thể hiện sự khinh bỉ của Ceaușescu với toàn bộ các mô hình phưpưng Tây, và tái đánh giá sự tự do hoá trước đó của ông là tư sản. Đại hội lần thứ 11 năm 1974 thắt chặt quản lý văn hoá Romania, hướng nó theo các nguyên tắc quốc gia của Ceaușescu:[23] đáng chú ý, các nhà sử học Romania được yêu cầu phải coi Dacians là có "một Nhà nước không tổ chức [sic]", một phần của một sự tiếp nối chính trị mà đỉnh cao là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa.[23] Chế độ tiếp tục cuộc đối thoại văn hoá theo các hình thức cũ, và Ceaușescu liên kết sự sùng bái cá nhân với các nhân vật như Mircea cel Bătrân (người ông gọi là Mircea Vĩ đại) và Mihai Viteazul; Romania cũng bắt đầu thêm các phiên bản kiểu Dacian hay Roma vào tên các thành phố và thị trấn (Drobeta thành Turnu SeverinNapoca thành Cluj).[24]
Một thế hệ những người cam kết ủng hộ mới ở phía ngoài xác nhận tính chất của chế độ. Ceaușescu có lẽ không bao giờ đặt sự quan trọng trên thực tế rằng các chính sách của ông tạo ra một mô hình cho những nhà lý luận của Chủ nghĩa Bolshevik Quốc gia như Jean-François Thiriart, nhưng có một sự liên kết được công khai hoá giữa ông và Iosif Constantin Drăgan, một nhà triệu phú di cư người Italia gốc Romania Iron Guardist (Drăgan đã cam kết với một Dacian Protochronism ca tụng chính sách văn hoá chính thức).
Nicolae Ceaușescu có một ảnh hưởng lớn với những nhà hùng biện dân tuý Romania hiện đại. Trong những năm cuối cùng của mình, ông đã bắt đầu phục hồi hình ảnh của nhà độc tài ủng hộ Phát xít Ion Antonescu. Dù Antonescu không bao giờ là một truyện thần thoại chính thức hoàn toàn thời Ceaușescu, các nhà chính trị bài ngoại hiện nay như Corneliu Vadim Tudor đã gắn liền các hình ảnh của hai nhà lãnh đạo trong các phiên bản về một lăng danh nhân quốc gia của họ. Cuộc xung đột với Hungary về việc đối xử với cộng đồng thiểu số Magyar tại Romania có nhiều khía cạnh bất thường: không chỉ là một cuộc tranh cãi cay độc giữa hai nhà nước xã hội chủ nghĩa chính thức (bởi Hungary vẫn chưa chính thức tham gia vào quá trình chuyển sang một nền kinh tế thị trường tự do), nó cũng đánh dấu thời điểm khi Hungary, một nhà nước phía sau Bức Màn Sắt, kêu gọi Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu áp đặt trừng phạt chống Romania. Điều này có nghĩa thời điểm cuối thập niên 1980 bị đánh dấu bởi một cuộc tấn công chống Hungary công khai, mang nhiều ý tưởng truyền thống quốc gia hơn chủ nghĩa Mác,[25] and the ultimate isolation of Romania on the World stage.
Nicolae Ceaușescu đề cao một ý tưởng kêu gọi giải tán Phong trào không liên kết hồi thập niên 1970. Tuy chế độ được coi là một nhà hoà giải cho nhiều cuộc xung đột giữa thế giới Ả Rập và Israel trong suốt thập kỷ, họ đã chuyển sang chỉ ủng hộ Tổ chức Giải phóng Palestine và, dần, thể hiện sự quan tâm tới một liên minh với Đạo Hồi. Vì thế, Romania là nhà nước xã hội chủ nghĩa duy nhất (trừ Albania, rời bỏ Khối hiệp ước Warszawat năm 1968) để công khai lên án cuộc Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan.
Sự phản đối mạnh mẽ chế độ của ông với mọi hình thức của perestroika và glasnost đặt Ceaușescu trước sự đối đầu với Mikhail Gorbachev. Trong một hành động ấn tượng, Ceaușescu đã yêu cầu giới lãnh đạo Liên Xô quay trở về lập trường trước kia, thậm chí yêu cầu sự đàn áp của Liên Xô với mọi phong trào giải phóng ở Khối Đông Âu ở nửa sau năm 1989.
Tháng 11 năm 1989, tại đại hội thứ 14 và cũng là đại hội cuối cùng của Đảng Cộng sản Romania, Ceaușescu lên án Hiệp ước Molotov-Ribbentrop và yêu cấu thủ tiêu các hậu quả của nó. Trên thực tế, hành động này để đòi lại Bessarabia (đa phân của nó khi ấy là một nước cộng hoà Xô viết và từ năm 1991 đã trở thành một nhà nước độc lập) và bắc Bukovina, cả hai đã bị Liên bang Xô viết chiếm đóng năm 1940 và một lần nữa ở cuối Thế chiến II.
NGuồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicolae_Ceau%C8%99escu

1 nhận xét:

  1. Le cong Dinh la luat su ,la tri thuc ma viet bai nay thi phai xem lai minh ---duoi con mat doc gia chung toi se nhin ong voi con mat khac---co nghia la ong cung chang ra gi chi la con cho bi xich lai gio keu ang ang --toi ghet CS nhung toi xem thuong mot nguoi co cai nhin thien can --loai ot cay nhung chi may phutthoi ---loai nguoi "Sau sac nhu coi dung trau"

    Trả lờiXóa