Tăng năng suất của Việt Nam: "Vấn đề là có làm hay không"
Mặc dù có nhiều năm hợp tác kinh tế chặt chẽ, Việt Nam đã không áp dụng bất kỳ công cụ năng suất nào của Nhật Bản đầy đủ hoặc thậm chí một phần... Nhấn mạnh rằng để tăng GDP một cách bền vững thì phải tăng năng suất, Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung cho biết là ông rất phân vân về hệ thống động lực để tạo ra chất lượng của nguồn cung. Ông Cung cũng nhấn mạnh rằng tiềm năng GDP của Việt Nam có thể đạt 8% hoặc cao hơn nữa. "Nhiều người bảo không làm được nhưng tôi nghĩ chúng ta làm được", ông Cung quả quyết. "Hàn Quốc, Nhật Bản làm được rồi, ta muốn bắt kịp thiên hạ, vươn lên hàng đầu thì không có cách nào phải tăng năng suất, nếu đặt mục tiêu như thế thì sẽ tìm kiếm lý do tại sao không làm được sau đó sẽ tính đến công cụ là gì và ai làm. Nếu có thông điệp mạnh mẽ từ lãnh đạo đến người lao động thì sẽ làm được, không có gì không làm được, tôi vẫn nghĩ thế, vấn đề là có làm hay không mà thôi", ông Cung nói tiếp.
Các chuyên gia trap đổi tại hội thảo khoa học "nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế thông qua năng suất quốc gia".
NGUYÊN VŨ 21/12/2018 Muốn bắt kịp thiên hạ thì không có cách nào khác là phải tăng năng suất lao động, và Việt Nam chắc chắn làm được điều này, vấn đề là có làm hay không thôi, TS. Nguyễn Đình Cung nói tại hội thảo khoa học "nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thông qua năng suất quốc gia". Hội thảo vừa được Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VVCI) tổ chức chiều 20/12.Trước phần thảo luận có sự tham gia của Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) Nguyễn Đình Cung, hội thảo đã nghe Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc giới thiệu tóm tắt về kết quả nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, một đề tài trong khuôn khổ chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2016 -2020.
Ông Lộc cho biết đề tài được thực hiện với sự hợp tác của nhiều viện nghiên cứu, trong đó có Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản, một trong những quốc gia có năng suất cao nhất thế giới.
Hội thảo cũng nghe phần trình bày rất sâu của Giáo sư, TS.Kenichi Ohno, Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản về "Chính sách năng suất của Nhật Bản: Bài học cho Việt Nam".
Những thông tin chung cho thấy năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực.
Tính theo PPP 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0% mức năng suất của Singapore; 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia và bằng 56,7% của Philippines. Và chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng.
Các tác giả của nghiên cứu chỉ ra rằng, trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp, những lợi thế cạnh tranh truyền thống dựa trên giá lao động rẻ và chi phí nguyên liệu thấp đang dần biến mất thì vấn đề năng suất thấp sẽ là một cản trở lớn đối với việc thu hút đầu tư và hội nhập quốc tế và sẽ khiến Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Do vậy, năng suất cần phải trở thành động lực chính thúc đẩy năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Giáo sư Kenichi Ohno nhấn mạnh, để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và đạt thu nhập cao trong tương lai, Việt Nam nên hướng tới tăng trưởng năng suất lao động bền vững từ 7-8%.
Tuy nhiên, vị chuyên gia Nhật Bản cũng đưa ra thông tin như là một câu hỏi lớn cho vấn đề năng suất của Việt Nam.
Đó là, mặc dù có nhiều năm hợp tác kinh tế chặt chẽ, Việt Nam đã không áp dụng bất kỳ công cụ năng suất nào của Nhật Bản đầy đủ hoặc thậm chí một phần.
Theo vị chuyên gia Nhật Bản này thì phong trào năng suất quốc gia nên được thực hiện trong ít nhất vài năm với các mục tiêu rõ ràng. Đảng, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp nên làm việc cùng nhau.
Nhấn mạnh rằng để tăng GDP một cách bền vững thì phải tăng năng suất, tức là phải cải thiện phần cung của nền kinh tế, song Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung cho biết là ông rất phân vân về hệ thống động lực để tạo ra chất lượng của nguồn cung.
Ông Cung cũng nhấn mạnh rằng tiềm năng GDP của Việt Nam có thể đạt 8% hoặc cao hơn nữa. "Nhiều người bảo không làm được nhưng tôi nghĩ chúng ta làm được", ông Cung quả quyết.
"Hàn Quốc, Nhật Bản làm được rồi, ta muốn bắt kịp thiên hạ, vươn lên hàng đầu thì không có cách nào phải tăng năng suất, nếu đặt mục tiêu như thế thì sẽ tìm kiếm lý do tại sao không làm được sau đó sẽ tính đến công cụ là gì và ai làm. Nếu có thông điệp mạnh mẽ từ lãnh đạo đến người lao động thì sẽ làm được, không có gì không làm được, tôi vẫn nghĩ thế, vấn đề là có làm hay không mà thôi", ông Cung nói tiếp.
Tuy nhiên, theo Viện trưởng CIEM thì ý chí vươn lên phải xuất phát từ những cơ quan lãnh đạo cao nhất, dù bây giờ đã muộn nhưng muộn còn hơn không.
"Đặt mục tiêu đủ cao để buộc phải tìm cách làm khác, tư duy khác", nhấn mạnh quan điểm này, vị Viện trưởng CIEM cũng bày tỏ hy vọng là kỳ Đại hội Đảng tới vấn đề nói trên cần được thảo luận thật sâu rộng để tìm cách vượt qua thách thức từ năng suất thấp.
Nếu lãnh đạo cấp cao và lãnh đạo khu vực công mà thay đổi thì mới có cách nhìn mới cho năng suất quốc gia, TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách đồng tình.
Ở Việt Nam thì những người làm ra giá trị thực đôi khi không được trân trọng, thử nhìn vào lực lượng trẻ xem có mấy ai say mê nghiên cứu cơ bản, hay chỉ thích làm việc trung gian, chỉ chỏ, những công việc có thể thu lợi rất nhanh, Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam, ông Nguyễn Anh Tuấn bình luận.
Vị này cũng nêu ra một khó khăn là muốn tăng năng suất thì nhiều nơi phải thuê chuyên gia, nhưng nhà nước lại khống chế mức thù lao rất thấp, mà tìm được những người thực sự giúp doanh nghiệp tăng năng suất lại rất khó.
Vẫn trở lại vấn đề có muốn làm hay không, TS Nguyễn Đình Cung cho biết là ông đã đi thực tế nhiều doanh nghiệp, qua đó kiến nghị cơ quan nhà nước nên đứng ra tổng kết trong phạm vi từ 2.000- 5000 doanh nghiệp xem tại sao trong bối cảnh hiện tại họ vẫn áp dụng công cụ tăng năng suất, cách tăng của họ là gì, từ đó nhân rộng ra thành chính sách chung. Thế nhưng kiến nghị của ông đã nêu ba, bốn năm rồi mà Bộ Khoa học và công nghệ cũng chẳng làm.
http://vneconomy.vn/tang-nang-suat-cua-viet-nam-van-de-la-co-lam-hay-khong-20181221092728315.htm
Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1931-2011); nhà nghiên cứu đầu ngành về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam; là một trong 50 cán bộ đầu tiên được cử đi đào tạo về nông nghiệp và đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Liên Xô cũ. Ông là con trai cả của cụ Đào Duy Anh, một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào bộ từ điển Larousse với tư cách là một nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.[1]
Đào Thế Tuấn sinh ngày 4 tháng 7 năm 1931 tại Thành phố Huế, nguyên quán ở Khúc Thủy, Thanh Oai, Hà Tây cũ (nay là Hà Nội); sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức nổi tiếng cả về trí tuệ và tinh thần yêu nước;
Mẹ là cụ bà Trần Như Mân một nhà giáo và hoạt động xã hội, Cha là cụ Đào Duy Anh, nhà sử học, địa lý, nhà từ điển học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam được từ điển Larousse gọi là nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.[2]
Ông tham gia Việt Minh từ rất sớm, vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 6 tháng 5 năm 1949 và chuyển chính thức ngày 9 tháng 10 năm 1949.
Năm 1953, học đại học tại Trường Đại học Nông nghiệp Tasken, Liên Xô. Cuối năm 1958 báo cáo tốt nghiệp của ông được trình bày thẳng để lấy bằng tiến sĩ nông học.
Từ năm 1958 đến năm 1995, công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Học viện Nông Lâm; tiếp đến là Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, được phân công làm Phó Viện trưởng rồi Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Tham gia và là Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam; Ông là người sáng lập bộ môn Hệ thống nông nghiệp (1989). Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, nhiều bài viết được các báo, tạp chí trong và ngoài nước xuất bản.[3]
Ông qua đời lúc 11h 30 ngày 19 tháng 1 năm 2011 tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội.
Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1931-2011); nhà nghiên cứu đầu ngành về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam; là một trong 50 cán bộ đầu tiên được cử đi đào tạo về nông nghiệp và đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Liên Xô cũ. Ông là con trai cả của cụ Đào Duy Anh, một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào bộ từ điển Larousse với tư cách là một nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.[1]
Đào Thế Tuấn sinh ngày 4 tháng 7 năm 1931 tại Thành phố Huế, nguyên quán ở Khúc Thủy, Thanh Oai, Hà Tây cũ (nay là Hà Nội); sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức nổi tiếng cả về trí tuệ và tinh thần yêu nước;
Mẹ là cụ bà Trần Như Mân một nhà giáo và hoạt động xã hội, Cha là cụ Đào Duy Anh, nhà sử học, địa lý, nhà từ điển học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam được từ điển Larousse gọi là nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.[2]
Ông tham gia Việt Minh từ rất sớm, vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 6 tháng 5 năm 1949 và chuyển chính thức ngày 9 tháng 10 năm 1949.
Năm 1953, học đại học tại Trường Đại học Nông nghiệp Tasken, Liên Xô. Cuối năm 1958 báo cáo tốt nghiệp của ông được trình bày thẳng để lấy bằng tiến sĩ nông học.
Từ năm 1958 đến năm 1995, công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Học viện Nông Lâm; tiếp đến là Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, được phân công làm Phó Viện trưởng rồi Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Tham gia và là Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam; Ông là người sáng lập bộ môn Hệ thống nông nghiệp (1989). Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, nhiều bài viết được các báo, tạp chí trong và ngoài nước xuất bản.[3]
Ông qua đời lúc 11h 30 ngày 19 tháng 1 năm 2011 tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội.
Thực trạng Nông dân Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
- Thu nhập còn quá thấp;
- Giá đất nông nghiệp thấp (tài sản duy nhất của nông dân định giá quá thấp và không được bảo vệ);
- Ít được hưởng phúc lợi xã hội nhất so với các tầng lớp khác, nhất là về giáo dục, y tế;
- Sống trong điều kiện môi trường càng ngày càng ô nhiễm;
- Đã nghèo lại luôn bị nạn hàng giả, hàng kém chất lượng hoành hành;
- Thương mại không công bằng, người dân luôn bị ép giá;
- Thiếu các phương tiện, công cụ để giảm, thoát nghèo, như cơ sở hạ tầng nông thôn còn yếu kém, khó tiếp cận vốn, lao động trẻ khỏe xa rời nông nghiệp.[4]
Quản lý nhà nước[sửa | sửa mã nguồn]
“ | Có một sự hiểu nhầm rằng, phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn là một, và Chính phủ giao Bộ NN-PTNT lo về phát triển nông thôn. Trên thực tế, Bộ này chưa làm được gì nhiều cả. Ngày trước, việc phát triển nông thôn do Bộ máy bên Đảng làm, có Ban Nông nghiệp TƯ lo tất cả các vấn đề về nông thôn như cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, xây dựng nông thôn như thế nào..., được cụ thể trong Chỉ thị 100, Nghị quyết TƯ 10... Bây giờ, đưa nông thôn về Bộ NN-PTNT, trong khi Bộ hầu như chỉ lo phát triển sản xuất và phòng chống thiên tai, mà lẽ ra phòng chống thiên tai là do Bộ Tài nguyên - Môi trường phải làm. Nên mỗi lần có thiên tai, Bộ trưởng Bộ NN-PTTN lại phải chạy khắp các địa phương để chỉ đạo, không có thì giờ để lo phát triển nông thôn. | ” |
— Đào Thế Tuấn [5] |
Ruộng đất và lao động[sửa | sửa mã nguồn]
“ | Việt Nam có sự hiểu nhầm về chuyện phát triển nông nghiệp tốt thì phát triển nông thôn tốt vì nông nghiệp đi lên kéo theo nông thôn phát triển. Thực tế không phải như vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất còn nông thôn là lãnh thổ. Hầu như tất cả các bộ, ngành của ta đều có bộ phận lo về nông thôn, như Giáo dục, Y tế rồi LĐ-TBXH... Vậy tại sao lại giao cho một bộ phụ trách cả công việc lớn như vậy?... Hiện nay, trong phát triển nông thôn có hai vấn đề lớn: ruộng đất và lao động, nhưng Bộ NN-PTNT lại không được quản lý. | ” |
— Đào Thế Tuấn [5] |
Tam nông[sửa | sửa mã nguồn]
“ | Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay, về thực chất, là vấn đề phát triển bền vững. Nếu công cuộc Đổi mới của nước ta dẫn đến một sự phân hoá xã hội quá mức, tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn thì sự phát triển sẽ không bền vững. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề khác nhau, song, nếu không cùng được giải quyết một cách đồng bộ thì không thể CNH-HĐH đất nước một cách vững chắc được. | ” |
— Đào Thế Tuấn [5] |
“ | Có điều chúng ta mải mê theo học thuyết Mác Lê nin, mà quên đi nhiều học thuyết khác, ví dụ lý luận của nữ tác giả người Thụy Điển Boserup, giải thích các điều kiện để có thể đa canh, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Theo học thuyết, dân số là động cơ để người ta phát triển đa dạng hóa các hoạt động sản xuất. | ” |
— Đào Thế Tuấn [4 |
Đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]
“ | Không còn nữa nhà trí thức tài hoa Đào Thế Tuấn; người yêu nước từ thủa ấu thơ, khi có giặc thì cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi hoà bình thì nghiên cứu hạt lúa, củ khoai; người lãnh đạo mà tài sản quý nhất trong nhà chỉ là sách vở. Nhưng còn mãi với chúng ta giọng nói miền Trung sang sảng của giáo sư khẳng khái tranh cãi học thuật; mãi còn đó nụ cười hóm hỉnh, dí dỏm của Giáo sư khi bàn bạc về lẽ đời; nhớ mãi dáng vẻ ngơ ngác, cặm cụi tìm tòi của con người mà trí tuệ và lòng bao dung vượt qua những trăn trở đời thường. Chỉ có tương lai mới cho chúng ta biết đã mất gì khi mất đi Đào Thế Tuấn và cũng chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết mình được gì do ông để lại. Vĩnh biệt Giáo sư Đào Thế Tuấn - Con người tuyệt đẹp của một Gia đình tuyệt đẹp. | ” |
— Đặng Kim Sơn [2] |
“ | Có thể nói rằng GS Đào Thế Tuấn là một trong những nhà khoa học nông nghiệp nghiên cứu khá toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn. GS đã góp phần xứng đáng vào sự tiến hoá của nông nghiệp nước ta trong suốt quá trình đổi mới vào thể chế thị trường và hội nhập. | ” |
— TS. Lê Hưng Quốc [6] |
Phong tặng[sửa | sửa mã nguồn]
- Huân chương Công trạng nông nghiệp và Huân chương cành cọ Hàn lâm của Pháp (1991);
- Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Liên Xô (1985);
- Giải thưởng quốc tế René Dumont dành cho các nhà nông học các nước đang phát triển (2003);
- Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Công trình "Công nghệ sản xuất lúa ở ĐB sông Hồng";[6]
- Anh hùng Lao động (9/2000);
- Huân chương Bắc đẩu bội tinh (Tháng 7/2009, Chính phủ Pháp trao tặng);
- Huân chương Hồ Chí Minh (2002).
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0o_Th%E1%BA%BF_Tu%E1%BA%A5n
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét