Việt Nam bị giằng xé giữa đất liền và biển trong quốc phòng?
Alexander L. Vuving, ngày 06 tháng 1 năm 2023 - Việt Nam nên ưu tiên đất liền hay biển trong nhiệm vụ đảm bảo an ninh? Đây không phải là một câu hỏi đơn giản như lần đầu tiên nó xuất hiện. Với đặc điểm địa lý của Việt Nam, một chiến lược quân sự thành công phải coi đất liền và biển là hai lĩnh vực bổ sung cho nhau, không loại trừ lẫn nhau. Việt Nam là một quốc gia hoàn hảo cho thuyết nhị nguyên đất-biển. Lãnh thổ VN trải dài mỏng dọc theo bờ biển phía tây của Biển Đông, khiến hầu hết các hoạt động của con người ở vùng tiếp giáp giữa đất liền và biển. Thần thoại nguồn gốc của nhóm dân tộc chính của nó tuyên bố cộng đồng này là hậu duệ của một người cha đến từ biển và một người mẹ đến từ những ngọn núi. Thuật ngữ “đất nước” trong tiếng Việt, đất nước, kết hợp từ “đất” (dat) và “nước” (nuoc). (Tuy nhiên, điều này không chỉ có ở tiếng Việt. Thuật ngữ tiếng Mã Lai cho “đất nước,” tanah air, cũng bao gồm các từ cho “land,” tanah, và “water,” air.)
Để hiểu lịch sử Việt Nam, cố sử gia Trần Quốc Vượng đã cố gắng đóng khung nó như một phép biện chứng giữa định hướng lục địa và định hướng biển. Một tác phẩm có ảnh hưởng lớn về lịch sử Việt Nam của Keith Taylor cũng mô tả “sự ra đời của Việt Nam” là “một nền văn hóa hướng về biển hòa nhập với môi trường lục địa”, mặc dù sau đó Taylor đã tách mình ra khỏi quan điểm này. Trong những năm 1980 và 1990, các yếu tố của định hướng biển đã đi đầu trong cuộc tranh luận trí tuệ đi kèm với việc Việt Nam mở cửa ra thế giới. Gần đây nhất, một cặp đôi đất liền-biển đã được hồi sinh để thảo luận về một số lựa chọn cơ bản trong đại chiến lược và chiến lược quốc phòng của Việt Nam.
Chọn khía cạnh “lục địa” của cuộc tranh luận, Khang Vũ khẳng định Việt Nam “cần xoay trục về phía đất liền vì an ninh của mình”. Điều này vấp phải sự phản bác từ Euan Graham, Bich Tran và Nguyen The Phuong, những người lập luận rằng “trọng tâm hàng hải là rất quan trọng đối với an ninh của Việt Nam.”
Việt Nam nên ưu tiên đất liền hay biển trong nhiệm vụ đảm bảo an ninh? Đây không phải là một câu hỏi đơn giản như lần đầu tiên nó xuất hiện.
Cuộc tranh luận trở nên bối rối (và khó hiểu) vì nó thiếu sự phân biệt quan trọng - giữa đại chiến lược và chiến lược phòng thủ. Đại chiến lược đặt ra các mục tiêu cao hơn và các cách thức chung cho chiến lược phòng thủ, từ đó xác định các cách thức và phương tiện cụ thể để bảo vệ các lợi ích và giá trị được xác định bởi đại chiến lược. Trong khi đại chiến lược liên quan đến định hướng chính trị, kinh tế và ngoại giao của một quốc gia, thì chiến lược quốc phòng lại tập trung vào việc phát triển và tổ chức các lực lượng quân sự và bán quân sự.
Lựa chọn giữa định hướng biển và lục địa là một câu hỏi then chốt đối với đại chiến lược của Việt Nam, nhưng sẽ sai lầm khi câu hỏi liên quan đến chiến lược quốc phòng của Việt Nam. Tôi sẽ trình bày chi tiết về những lập luận này trong hai bài báo.
Bài viết hiện tại lập luận rằng, trái với khẳng định của Khang Vũ, sự lựa chọn giữa đất liền và biển chưa bao giờ là một tình thế tiến thoái lưỡng nan, cũng chưa phải là một lựa chọn thực sự, trong quốc phòng của Việt Nam, và nó sẽ không như vậy trong tương lai gần.
Tôi sẽ tranh luận trong bài viết tiếp theo rằng, tuy nhiên, tính hai mặt trên bộ-trên biển có thể giúp hiểu được một số xu hướng dài hạn liên quan đến môi trường chiến lược của Việt Nam và những lựa chọn mà giới tinh hoa của Việt Nam đã đưa ra trong lịch sử liên quan đến các đại chiến lược của họ. Vì vậy, không nên biến một lựa chọn chiến lược lớn thành một lựa chọn chiến lược phòng thủ một cách máy móc.
Với đặc điểm địa lý của Việt Nam, một chiến lược quân sự thành công phải coi đất liền và biển là hai lĩnh vực bổ sung cho nhau, không loại trừ lẫn nhau. Thật vậy, Đại Việt, tiền thân của Việt Nam hiện đại, khi đóng đô ở đồng bằng Bắc Bộ, đã phải phòng thủ trước các cuộc tấn công đồng thời từ cả trên bộ và trên biển của người phương bắc (Trung Quốc và Mông Cổ) hoặc người phương nam (người Chăm). Do đường biển giúp tiếp cận thủ đô của Việt Nam dễ dàng hơn nên các trận chiến quyết định của Đại Việt chống lại quân xâm lược Trung Quốc và Mông Cổ hầu hết diễn ra ở cửa sông Bạch Đằng, nhưng Đại Việt không bao giờ bỏ qua các tuyến đường bộ từ biên giới Trung Quốc. Khi đánh chiếm Chiêm Thành, tiền thân lãnh thổ của miền Trung Việt Nam ngày nay, Đại Việt hầu như bao giờ cũng đồng thời tiến công trên bộ và trên biển, trong đó cánh trên biển có vai trò quyết định hơn.
Trong Chiến tranh Việt Nam, trái với gợi ý của Vũ, các chiến lược gia Bắc Việt cũng nhận ra tầm quan trọng của biển, mặc dù các cuộc tấn công của họ chủ yếu diễn ra trên đất liền. Hậu cần cung cấp một nửa thành công cho bất kỳ chiến dịch quân sự nào, và Bắc Việt cung cấp cho các lực lượng của họ ở miền Nam không chỉ qua “Đường mòn Hồ Chí Minh” trong rừng mà còn qua các tàu “không số” ngụy trang thường đi xa bờ .
Đó là một nhân vật không kém gì Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người nổi tiếng, trong số những điều khác, vì quan điểm rằng Đông Dương là một nhà hát chiến tranh duy nhất và một đơn vị chiến lược duy nhất – người đã nhấn mạnh giá trị quân sự và kinh tế của Biển Đông và , vào mùa xuân năm 1975, đã ra lệnh cho Lực lượng Hành quân Đặc biệt của Bắc Việt Nam đổ bộ lên các đảo do Nam Việt Nam chiếm đóng ở Trường Sa trước khi Trung Quốc có thể làm như vậy.
Ngày nay, như tôi đã lập luận trước đây tại The Diplomat, “biển và đất liền hiện là một phần của một địa hình chiến lược duy nhất ở châu Á.” Vũ khí hiện đại, đặc biệt là hỏa lực chính xác tầm xa, máy bay không người lái và mã máy tính, càng làm cho sự phân chia đất-biển trở nên lỗi thời.
Đối với Việt Nam, mối đe dọa quân sự hợp lý nhất sẽ đến từ Trung Quốc, nhưng đó không phải là một cuộc tấn công trên bộ toàn diện dọc theo biên giới trên đất liền (hãy nghĩ đến cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine năm ngoái) hay một cuộc tấn công đổ bộ dọc theo bờ biển Việt Nam (hãy nghĩ đến quân Đồng minh xâm lược Normandy năm 1944). Một cuộc xâm lược toàn diện như vậy sẽ được dành cho Đài Loan, không phải Việt Nam.
Mục đích chính của Trung Quốc khi tấn công Việt Nam, nếu là một cuộc tấn công quân sự, sẽ không phải là chiếm một vùng đất rộng lớn của Việt Nam mà là để “dạy” Việt Nam – và rộng ra là các nước châu Á khác và Hoa Kỳ – một bài học. Thứ hai, và nếu có thể, Trung Quốc sẽ nhắm tới việc giành được một số địa điểm chiến lược, rất có thể là ở Biển Đông.
“Bài học” có thể được đưa ra dưới hình thức phong tỏa hoặc xâm chiếm một số tiền đồn của Việt Nam ở Biển Đông, phong tỏa các cảng biển và hàng không chính của Việt Nam, hoặc một số cuộc tấn công phẫu thuật. Ngay cả khi nó leo thang thành một cuộc chiến toàn diện, nó sẽ là một hoạt động đa lĩnh vực, trong đó các lực lượng trên bộ, trên biển, trên không, trong không gian và mạng sẽ được sử dụng theo một cách tích hợp nào đó để đạt được mục tiêu chính trị.
Trong cách tác chiến hiện đại này, Việt Nam phải tránh tư duy song phương lục-biển. Thay vào đó, họ phải đầu tư nhiều hơn vào hệ thống phòng không, pháo binh và tên lửa, phương tiện không người lái (trên không, trên mặt nước và dưới nước), và chiến tranh mạng và điện tử, bên cạnh những tài sản quan trọng nhất: tinh thần và hỗ trợ quốc tế.
Đất và biển xác định địa lý và lịch sử của Việt Nam, nhưng cặp đôi đất-biển không xác định các lựa chọn chiến lược thực sự trong quốc phòng của Việt Nam, cũng như không đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan thực sự cho các chiến lược gia của Việt Nam. Giữa chiến lược quốc phòng và đại chiến lược có mối quan hệ qua lại với nhau nhưng không được máy móc.
Alexander L. Vuving
Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này là của riêng tác giả. Theo dõi anh ấy trên Twitter @Alex_Vuving.
https://thediplomat.com/2023/01/is-vietnam-torn-between-land-and-sea-in-its-defense/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét