Hạt bụi lấp lánh ánh sáng của đảng (!)
(tiếp theo)
Hơn 500 trang “phần một” “Vỡ bờ “, Nguyễn Đình Thi đã dàn ra hàng tá nhân vật từ thượng lưu quý tộc, tư sản - địa chủ như nghị Khanh, vợ chồng huyện Môn, Phượng, Hằng, hoạ sĩ Thanh Tùng…tới giới lao động bình dân như giáo Hội, hoạ sĩ nghèo Tư, làm thuê Gái, An…, các cán bộ hoạt động cách mạng Khắc, Lê, Cảnh… Tuy nhiên, ngoài ông cán bộ cộng sản Khắc đã chết do đòn tra tấn của Pháp , hầu như toàn bộ nhân vật vẫn sống hết ngày dài lại đêm thâu , phận số vẫn vậy , chẳng đổi thay, cứ như bị trưng ra đó mà chẳng biết đưa đi đâu đi về đâu .
Cho dù xã hội nảy sinh nhiều sự kiện nóng bỏng, nào Nhật Pháp bắn nhau, nào cách mạng bị đánh phá, thoái trào khắp nơi nơi, nào công nông bị bóc lột và sống lầm than… nhưng vẫn chưa biến cố nào rơi vào mỗi cá nhân tạo nên đột biến để đám nhân vật Nguyễn Đình Thi bày la liệt đó có cơ hội trở thành nhân vật của tiểu thuyết. Hay nói rõ hơn, tiểu thuyết đã “đi” được cả 500 trang mà phần lớn nhân vật vẫn “tại vị”, vẫn chưa bị đẩy vào cảnh ngộ để từ đó bật ra tính cách của riêng nó.
Cuối phần một, ông cán bộ thành uỷ Khắc hy sinh, vậy ngay đầu phần hai ông nhà văn phải cho người khác thay thế . Người đó chẳng phải nhân vật mới nhảy vào truyện mà chính là đồng chí bí thư xứ uỷ Lê , thủ trưởng cũ của Khắc.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người đọc chờ đợi tác giả dẫn dắt họ theo chân cán bộ Đảng len lỏi vào dân, thắp lại lòng tin của quần chúng , xây dựng lại các cơ sở …Tiếc thay ông nhà văn tuyệt nhiên không làm được thế. Ông chỉ đưa ra cảnh ông bí thư xứ uỷ Lê liên lạc với anh cán bộ Cảnh để lên lớp chính trị, truyền đạt chủ trương đường lối…lặp lại y chang cảnh Khắc giáo dục chính trị tư tưởng cho chị Gái ngày trước :
“ Cảnh ngồi lặng im nghe giảng giải, nhưng rõ ràng sự thu nhận còn khó khăn , nó vấp phải những cách nghĩ , những tình cảm đã ăn sâu vào tâm trí từ lâu . Lê vẫn nói rủ rỉ nhưng giọng anh đã quả quyết :
“ Vấn đề bây giờ là tập trung mọi lực lượng đánh tụi phát xít. Đây cậu nghe lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài gửi về.”
Và tác giả “chơi” luôn nguyên văn một đoạn lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc . Rồi mượn lời “đồng chí Lê”, Nguyễn Đình Thi tranh thủ ca ngợi “bác Hồ” :
“ Tôi có một lần được xem ảnh đồng chí ấy ở Sở mật thám Sàigòn. Lần ấy thằng Riu đang hỏi cung mình bỗng nó đưa ra một bức ảnh và bảo :” Mày có biết ai đây không ? Nguyễn Ái Quốc lãnh tụ tối cao của chúng mày ở nước ngoài…” Mình mặc kệ nó nói gì thì nói, xem ảnh cái đã. Đồng chí Nguyễn Aùi Quốc đội mũ phớt đen, quàng khăn phu la, mình chỉ còn nhớ đồng chí đội mũ mà vẫn rõ trán rất cao và đôi mắt sáng lắm…”
Vậy là mọi chủ trương đường lối, mọi niềm tin vào tương lai của cách mạng vẫn chỉ là chuyện trao đổi giữa mấy ông cán bộ cộng sản với nhau, còn việc đưa nó vào quần chúng, biến nó thành sức mạnh cách mạng thì không nhắc tới. Sau khi kể sơ sài việc gây dựng lại phong trào chỉ qua một buổi hội ý giữa hai ông cán bộ xứ uỷ, ông nhà văn trở lại các nhân vật “quần chúng ”.
Gia đình của Khắc sau cùng đã nhận được tin ông hy sinh. Việc đầu tiên là mẹ ông, bà Tú gieo rắc hận thù vào lòng con trẻ – Thu , con gái Khắc mới có 9 tuổi .
“ Lúc Quyên ( em gái của Khắc) đã chít miếng vải trắng lên đầu cái Thu, bà Tú kéo đứa cháu vào lòng nói chuyện với nó :
“ Thu, năm nay cháu lên chín rồi, cháu nhớ phải để chở bố cháu ba năm cho trọn đao làm con. Thế là bố cháu đi theo ông rồi đấy. Tây nó đày ông cháu chết ở ngoài đảo Côn Lôn , bây giờ lại đánh cháu chết ở trong tù. Nó ác thế đây cháu ạ…”
Tất nhiên, khi lớn lên, những đứa trẻ như Thu ngoài việc “khắc cốt ghi xương” hận thù và theo đảng làm cách mạng đến cùng, còn đầu óc đâu suy nghĩ đến những chuyện tốt đẹp khác trong cuộc sống con người ?
Dặn dò cháu rồi, bà Tú, mẹ của Khắc , khấn thầm với chồng :
“Ông ơi ông thế là con nó đã đi theo ông rồi. Tôi đã nuôi thằng Khắc con Quyên nhớn khôn, chúng nó không làm điều gì nhục cho họ nhà ta. Tôi không làm thế nào giữ cho thằng Khắc còn sống được. Nhưng nó chết cũng là vì nước vì dân, không đến nỗi phải hổ thẹn với ai…”
Thật đúng bà mẹ Việt Nam anh hùng, không lo dựng vợ gả chồng cho con cái, chỉ lo “không làm gì nhục cho họ nhà ta” với niềm tự hào có con “chết vì nước vì dân”. Hình ảnh người mẹ của Nguyễn Đình Thi cũng chỉ xào xáo lười nhác hình ảnh “người mẹ” của Gorki, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi và khẩu hiệu “trung hậu, bất khuất, đảm đang” mà Đảng và Nhà nước phong tặng cho các bà mẹ Việt Nam.
Tuy thế, tác giả có vẻ sảng khoái dựng nhân vật gần gũi với ông nhất : anh giáo Hội, thất nghiệp quay sang viết văn. Nhưng anh viết gì được khi anh cho rằng :
“ Bọn người viết văn bây giờ chẳng qua là một lũ ô trọc cầm bút . Họ cần gì đến văn chương, họ chỉ cần tiền và họ chạy theo mốt, họ ăn cắp của các nhà văn nước ngoài , họ mạ lại những ý nghĩ của người khác để loè người không biết , họ viết quàng xiên những chuyện bịa đặt quái lạ , lấy sự ly kỳ để câu người xem, chứ không biết nhìn vào sự thật hàng ngày, cái sự thật tầm thường nó đáng nói biết bao…”
Nguyễn Đình Thi viết những dòng đầy hứng khởi này mà quên béng mất cái “lũ ô trọc cầm bút” ấy đã tạo ra cả một nền văn xuôi rực rỡ với những tên tuổi lớn Ngô tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng…và nhận định này, kỳ lạ thay lại phù hợp với thời hiện tại, thời “ một lũ ô trọc cầm bút” ở Hội nhà văn VN “viết quàng xiên những chuyện bịa đặt ly kỳ câu người xem chứ không biết nhìn vào sự thật hàng ngày…”
Rồi ông nhà văn tên Hội lại than thở :
“ Vì ở nước mình , cái anh viết văn còn có giá trị gì nữa ? Còn được đi đến đâu , trông thấy gì, biết gì nữa ? Thân phận như một thằng ăn xin , sống như một con ốc sên chỉ ru rú trong cái vỏ của mình…Hội cho rằng một xã hội mà để cho những nghệ sĩ của nó chết đói là một xã hội đốn mạt , mà một xã hội nuôi nhà văn và nghệ sĩ như ông hoàng thì cũng nát bét…”
.Thật chẳng có lời lẽ nào hay hơn, chính xác hơn để chỉ cái đám giặc già – nói theo kiểu Nguyễn Huy Thiệp – ở Hội nhà văn Việt Nam hiện thời ?
Mạt sát nghề cầm bút vậy nhưng Hội cũng kỳ cạch viết xong một cuốn tiểu thuyết có tựa “ Những mối tình sông nước”. Và rồi từ đó ông nhà văn xác định ngay được “hướng đi” trong cái nghề kiếm sống bằng chữ nghĩa :” Anh sẽ cứ viết truyện ngắn cho các báo để kiếm vặt mỗi tháng mười lăm đồng và trong khi ấy anh sẽ tiếp tục viết quyển tiểu thuyết thứ hai của anh…”
Cái phương châm “lấy ngắn nuôi dài” mà các ông nhà văn ngày nay thường khoe khoang , hoá ra đã có từ thời tiền khởi nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét