Thoạt đọc qua tựa đề, tôi không thể không liên tưởng đến bữa ăn cuối cùng của các tử tội trước khi bị đem đi hành quyết. Mà suy cho cùng, dường như cái lối ăn uống của nhiều người Việt Nam trong nước hiện nay chẳng khác bao nhiêu với bữa ăn cuối cùng của các tử tội.
Bài viết nói đến trường hợp của một bệnh nhân tại quận Đống Đa, Hà nội: “Bệnh nhân 54 tuổi này đã rời xa các bàn nhậu từ khoảng gần một năm nay vì bệnh tiểu đường. Trước đây, trong các cuộc nhậu của bạn bè, gần như ông không bao giờ vắng mặt. Bác sĩ trưởng khoa Tim mạch tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội cho biết ông đã gặp nhiều người (nói không ngoa) chết vì ăn, chết vì uống. Ông bác sĩ này kể lại: “Một bệnh nhân mới 45 tuổi, khi còn nghèo khó thì làm việc cật lực, chí thú kiếm tiền và tiết kiệm. Đến khi có nhiều tiền, anh quay ra ăn uống nhậu nhẹt vô biên, ngày nào cũng nhậu, có ngày nhậu mấy cuộc. Ở tuổi 45, anh chết vì xơ gan sau một thời gian dài phải “đeo ba lô ngược” (bụng quá phệ).
Cũng theo bài viết, có nhiều bệnh nhân ăn uống vô độ, chỉ cao khoảng 1m63, nhưng nặng đến gần một tạ. Gia đình bệnh nhân này lại có tiền sử mấy đời cao huyết áp. Khi được bác sĩ khuyên cần phải giảm cân bằng cách giảm ăn, tăng vận động, bệnh nhân từ chối hợp tác vì nhịn ăn là chuyện không thể.
Bác sĩ trưởng khoa Tim mạch, bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội nhận định: “Nếu cứ như vậy thì anh ta không phải ăn để sống, mà là ăn để chết. Tôi thấy xã hội chúng ta giờ trọng chuyện ăn uống quá. Làm việc gì cũng phải có tiệc chiêu đãi toàn món ngon, bổ béo”.
Bác sĩ này cũng cho biết: đa số những người “ăn để chết” đều là những người giàu có và các bệnh phổ biến hơn cả vẫn là tim mạch, huyết áp, gan, thận, tiểu đường.
Dĩ nhiên, nếu có những người giàu “ăn để chết” thì cũng không thiếu người nghèo bị buộc phải ăn thực phẩm rẻ tiền, không hợp vệ sinh, không an toàn do đó cũng bị mang bản án “ăn để chết”. Tựu trung, người giàu chết vì béo phì, còn người nghèo chết vì thiếu vệ sinh.
Phải nói chẳng có nơi nào trên thế giới, người ta ăn nhậu tưng bừng như ở Việt nam. Sáng sớm, mới mở mắt đã thấy có người gánh hàng đi ngang trước nhà. Tối đến, khuya lơ khuya lắc, không chỉ các nhà hàng sang trọng, mà các hàng quán rẻ tiền cửa vẫn mở. Tiệc vui, người ta ăn nhậu đã đành, mà ma chay, người ta cũng nâng ly “dzô” tới bến.
Không biết có phải vì điếc mà người ta không sợ súng chăng? Người Pháp thường nói “bụng đói không có tai”. Đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi. Sau năm 1975, cái bụng đói của tôi hầu như không còn tai nữa. Cà phê được pha chế cỡ nào, tôi cũng nốc. Thuốc lá có tẩm thuốc độc cỡ nào tôi cũng rít. Rượu thì khỏi nói. Biết người ta bỏ thêm thuốc rầy Mitox vào để tăng nồng độ rượu, tôi cũng chẳng chê. Còn thịt mỡ có thèm “nhỏ rãi” cũng chẳng có mà ăn, hơi đâu mà quan tâm đến “Cholesterol”, tức mỡ trong máu. Ngày nay hầu như thịt gì tôi cũng nếm. Đúng là hễ con gì cựa quậy, nhúc nhích là xơi được ráo! Người Việt Nam nào có lẽ cũng đều đã trải qua những cảnh phải tranh đấu với thiên nhiên để sống còn chẳng khác gì Bear Gryllss trong chương trình truyền hình “Man vs Wild” (người chống chọi với thiên nhiên).
Ngày nay, sau gần nửa đời người sống ở xứ người, ý thức hơn về những đòi hỏi của phép vệ sinh, nhứt là vệ sinh trong ẩm thực, học được đôi chút về nếp sống văn minh, tôi không thể hiểu được tại sao mình đã có thời ăn uống bừa bãi như thế trong 5 năm.
Tôi hiểu được phần nào phản ứng, cách suy nghĩ và ngay cả phán đoán gay gắt của ông Joel Brinkley, giáo sư chuyên ngành báo chí thuộc trường đại học Stanford, Hoa kỳ, về cách ăn uống hiện nay của người Việt Nam trong nước. Theo ông giáo sư đã từng đoạt giải Pulitzer này, sở dĩ người Việt Nam “hung hăng, hiếu chiến” là vì ăn nhiều thịt.
Giáo sư Brinkley đã đưa ra nhận xét trên đây sau một chuyến du lịch 10 ngày xuyên qua nhiều nơi tại Việt Nam. Viết trên báo The Chicago Tribune, ông Brinkley cho rằng du khách đến Việt Nam hầu như chẳng còn thấy bóng dáng thú nuôi hay động vật hoang dã nữa bởi vì đa số đều đã bị người Việt Nam hiện nay săn tìm để xơi tái.
Ông viện dẫn những cuộc chiến của Việt Nam với Trung Quốc và Campuchia để kết luận rằng vì thường xuyên ăn thịt cho nên người Việt Nam hung hăng hơn nhiều so với người dân các nước lâng bang.
Dĩ nhiên, bài viết của ông giáo sư của trường đại học danh tiếng Stanford trên đây đã tạo ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ từ người Việt khắp nơi trên thế giới, khiến báo The Chicago Tribune phải chính thức lên tiếng xin lỗi.
Không phải quơ đũa cá nắm, nhưng bất cứ người Việt hải ngoại nào về thăm Việt Nam một lần cũng đều nhận thấy người Việt Nam sống dưới chế độ hiện nay “khác” với người Việt Nam trước năm 1975. Khác nhiều thứ lắm. Khác nhứt là cách ăn uống. Như ông bác sĩ ở Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội trên đây đã nói, nhiều người Việt Nam trong nước hiện nay “ăn để chết”. Nghe như một nghịch lý. Nhưng thực tế là như vậy. Không chết dần chết mòn trong thân xác, thì cũng chết từ từ trong nhân cách. Người Tây Phương có lý để nói rằng “we are what we eat” (tạm dịch: ăn cái gì thì người như vậy). Tính khí của người ăn chay trường chắc chắn khác với kẻ nhậu nhẹt quanh năm ngày tháng. Người ăn uống điều độ hẳn cũng có tư cách khác với kẻ ăn uống bừa bãi, vô độ.
Người Việt Nam chúng ta thường nói: “miếng ăn là miếng tồi tàn”. Kỳ thực, tự nó, miếng ăn là điều tốt. Miếng ăn nuôi thân xác, tạo sự gặp gỡ, giúp thể hiện tình liên đới và chia sẻ. Có tồi tàn chăng là trong tư cách của con người mà thôi. Chỉ biết tới cái bụng của mình, chỉ biết ăn cho sướng cái lỗ miệng mà chẳng màng đến sức khỏe, bệnh tật và những hệ lụy đối với người thân và xã hội, ăn như thế đúng là ăn để chết và chết tồi tàn.
Trong một bài viết về cái ăn, tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc cho rằng dân tộc Việt Nam bị “ám ảnh” bởi cái ăn. Chuyện gì cũng quy về cái ăn. Từ nào cũng có thể được ghép với chữ ăn.Thật ra, ông bà ta không hẳn theo triết lý hiện sinh, nhưng đã có lý để xem cái ăn như chuyện quan trọng nhứt trong đời người, cho nên mới xếp việc “học ăn” lên đầu của mọi thứ học. Cứ như “học ăn” được thì chuyện gì cũng học được hết!
Chúa Nhựt vừa qua, trong giờ Thánh lễ, tôi đã bị “thu hút” bởi cái miệng của một bé gái khoảng một tuổi, ngồi với cha mẹ ở băng ghế phía trước. Trong các nhà thờ Úc, người ta thường thiết kế một chỗ đặc biệt ở phía cuối dành riêng cho thơ nhi đi cùng cha mẹ. Ngồi trong một “lồng kiếng” như thế, trẻ con tha hồ la hét. Nhưng cũng có nhiều bậc cha mẹ phá lệ, mang trẻ thơ đến ngồi hòa đồng trong đám đông. Gặp lúc muốn nghe bài giảng của vị linh mục thì trẻ thơ, dù có dễ thương cách mấy, cũng làm cho mình khó chịu. Nhưng khi vị linh mục giảng mà mình có chăm chú cách mấy cũng chẳng hiểu gì thì trẻ thơ, dù có quậy phá cỡ nào, cũng vẫn là “thiên thần” cứu nguy khỏi cơn…ngủ gục. Vị thiên thần ở trước mặt tôi quả đã mang lại cho tôi nhiều giây phút “thoải mái” trong giờ lễ. Cô bé có cái miệng thật xinh. Có lúc cô nói bi bô. Có lúc cô quay xuống cười với vợ chồng tôi. Nhưng động tác chính của cô vẫn là cầm bất cứ món gì cũng cho vào miệng, không riêng miệng mình mà còn nhét vô miệng cha mẹ nữa một cách thật dễ thương.
Tan lễ, khi bàn đến cái miệng của cô bé thiên thần trong nhà thờ, nhà tôi nhắc lại hai điểm nổi bật trong tư tưởng của cha đẻ phân tâm học Sigmund Freud (1856-1939). Theo ông, đời người có hai giai đoạn: giai đoạn tuổi thơ tập trung vào cái miệng; cái gì cũng đưa vào miệng. Giai đoạn trưởng thành lại xoay quanh tính dục; bản năng tính dục chi phối mọi sinh hoạt của con người; động lực đàng sau mọi hoạt động của con người luôn là tính dục.
Vai trò của tính dục trong cuộc sống con người, theo quan niệm của Freud, có thể còn trong vòng tranh cãi. Nhưng về vai trò của cái miệng ở tuổi thơ và ngay cả trong tuổi trưởng thành, thì quả thật tôi thấy khó chối cãi được. Trong thân thể con người, miệng không phải là cơ phận quan trọng nhứt sao? Và trong các chức năng của miệng, ăn không phải là sinh hoạt chính sao?
Đâu phải chỉ có người Việt Nam mới xem “chuyện ăn” là điều quan trọng nhứt trong cuộc sống con người. Tôi nghĩ đến câu chuyện ông bà nguyên tổ loài người Adam và Eva bị cám dỗ trong vườn địa đàng. Cơn cám dỗ đầu tiên của hai ông bà này, dù có giải thích như thế nào đi nữa, vẫn xoay quanh chuyện ăn. Điều này cho thấy cám dỗ lớn nhứt trong đời người có lẽ vẫn là chuyện ăn uống.
Cũng trong Kinh Thánh, tôi đọc được rằng cơn cám dỗ đầu tiên mà Chúa Giêsu phải trải qua sau 40 đêm ngày chay tịnh cũng chính là về cái ăn. Ma quỉ dụ dỗ Ngài: hãy biến những hòn đá trước mặt thành bánh mà ăn!
Tôi không biết Chúa Giêsu có phải là một người thích ăn uống nhậu nhẹt không. Nhưng rất nhiều những sinh hoạt chính của Ngài được ghi lại trong Kinh Thánh lại liên quan đến chuyện ăn uống. Hẳn Ngài cũng đã nhiều lần ngồi vào bàn nhậu để chén thù chén tạc với phường thu thuế cho nên những kẻ chống đối Ngài rêu rao rằng Ngài là một tên “bợm nhậu”. Chắc chắn Chúa Giêsu phải xem chuyện ăn uống là điều quan trọng trong cuộc sống con người cho nên trong rất nhiều bài giảng, Ngài thường sử dụng hình ảnh của bữa tiệc hay tiệc cưới. Rõ ràng nhứt là trước khi chết, nghi thức mà Ngài muốn trối lại cho các môn đệ để cử hành và tưởng nhớ đến Ngài cũng chính là một bữa tiệc (thường gọi là Tiệc Ly).
Ngày nay, mỗi lần gặp nhau trong các thánh lễ Chúa Nhựt, các tín hữu Kitô cũng lập lại nghi thức “ăn uống” ấy. Đỉnh điểm của đời sống tôn giáo của họ là một bữa ăn. Họ lập lại bữa ăn ấy không chỉ để tưởng niệm Đấng Cứu Độ, mà còn để tự nhắc nhở rằng cuộc sống tự nó phải là một bàn ăn trong đó mọi người đều được mời gọi ngồi bên nhau và chia sẻ cho nhau. Cuộc sống vẫn mãi mãi là một trường dạy “học ăn”.
Trong lúc trà dư tửu hậu, khi chia sẻ với bạn bè thân quen, tôi thường nói rằng, với tôi, trong các thứ học thì học làm người là điều khó nhứt. Người, theo một định nghĩa mà tôi vẫn cho là xác đáng nhứt, là “một con vật có lý trí”. Xét dưới nhiều phương diện, con người chẳng khác con thú bao nhiêu. Có khác chăng là bởi con người có lý trí và luôn phải hành động theo lý trí. Vứt cái lý trí đi thì con người sẽ hành động chẳng khác gì thú vật. Cụ thể là chuyện ăn uống. Hãy thử tưởng tượng: khi ta tạm nghỉ chơi với lý trí để được tự do ăn uống như súc vật, chuyện gì xảy ra nếu không phải là: con người chỉ còn biết “ăn để chết”.
Có lẽ vì học làm người là chuyện khó nhứt trong cuộc sống và trong học làm người thì ăn lại là chuyện phải học suốt cả một đời, cho nên trong tôn giáo nào cũng có chuyện ăn chay. “Ăn chay” chính là “học ăn”. Ăn như thế nào để “ăn không phải để chết” mà là để sống và sống sung mãn trong nhân cách vậy.Chu Thập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét