Lão nông Hàn Quốc cưới nữ du học sinh Việt Nam ?
FB NHƯ HỒ - Sự kiện Chính quyền thành phố Mungyeong của Hàn Quốc gợi ý các lão nông chọn cưới nữ du học sinh Việt Nam có thể khiến cho những công dân từng sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa không khỏi ngậm ngùi cho đất nước và dân tộc mình. Vào thập niên 50 và 60 của thế kỷ 20, Đại Hàn Dân Quốc là quốc gia thuộc hàng nghèo nhất nhì Châu Á. Sau non nửa thế kỷ bị cưỡng ép “tiến lên” Chủ Nghĩa Xã Hội, người Việt Nam hôm nay bị chính quyền một thành phố nhỏ của Đại Hàn coi thường đến như vậy, trong khi chóp bu Ba Đình thì vẫn huyênh hoang “đất nước chưa bao giờ được như thế này”.Theo The Korea Times ra ngày 28-5-2021, chính quyền thành phố Mungyeong, tỉnh Bắc Gyeongsang đang vấp phải sự chỉ trích từ các nhóm bảo vệ quyền phụ nữ và người nhập cư, vì cổ xúy cho chiến dịch khuyến khích nam nông dân lớn tuổi kết hôn với nữ du học sinh Việt Nam, cho đỡ tốn công tìm kiếm.
Chiến dịch này mô tả đủ để hiểu rằng các ông nông dân độc thân lớn tuổi có thể tìm thấy niềm vui đời sống bằng cách chọn kết hôn với một nữ du học sinh Việt Nam trẻ. Việc kết hôn đó sẽ lợi cả đôi đường: các ông không bị tốn kém vào dịch vụ môi giới và không phải đi xa để cưới vợ, trong khi các nữ du học sinh Việt Nam được đánh giá là rất muốn ở lại Hàn Quốc một cách hợp pháp.
Các nhóm nhân quyền ở Hàn Quốc đã lên tiếng phản ứng mạnh mẽ về gợi ý này của chính quyền thành phố Mungyeong, vì họ cho rằng một chiến dịch như vậy rõ ràng là phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử, không chỉ chống lại một quốc gia cụ thể, mà còn chống lại tất cả phụ nữ nhập cư và du học sinh sống ở Hàn Quốc.
Trung tâm Nhân quyền Di cư cho Phụ nữ Hàn Quốc vào hạ tuần tháng 5 cho biết, họ đã tìm thấy tài liệu quảng cáo trực tuyến của thành phố Mungyeong cho chiến dịch vào giữa tháng 4, trong đó chính quyền thành phố nhắm tới việc giúp các nam nông dân “lớn hơn tuổi kết hôn” có thể tìm thấy cơ hội kết hôn dễ dàng, là các nữ sinh viên Việt Nam.
Ở đây, cụm từ “lớn hơn tuổi kết hôn” dĩ nhiên là để nói khéo về một tầng lớp các người già Hàn Quốc còn nhu cầu sinh lý nhưng vợ đã qua đời, hoặc do nghèo khó nên chưa lấy được vợ. Hiện tượng này vốn vẫn diễn ra ở các vùng nông thôn xa xôi của Hàn Quốc, dẫn đến hiện tượng “mua cô dâu” từ đầu thế kỷ 21 đến nay.
Chính quyền thành phố Mungyeong giải thích rằng, chiến dịch này được thực hiện nhằm góp phần đẩy lùi sự suy giảm dân số và sự lão hóa của xã hội Hàn Quốc, cũng như sẽ giảm thiểu được các vụ buôn người, thông qua kết hôn giả.
Trong tài liệu, chính quyền thành phố cũng yêu cầu các công ty môi giới hôn nhân quốc tế tham gia hợp tác giúp giải quyết cho hiện trạng “già” và “cô đơn” này của các nông dân Đại Hàn.
Tuy nhiên các nhóm nhân quyền đã đệ đơn lên Ủy ban Nhân quyền Quốc gia Hàn Quốc để chống lại chương trình này của chính quyền thành phố Mungyeong.
Một người của chiến dịch chống lại cách khuyến khích kết hôn này, nói: “Sáu mươi ba nhóm công dân khác nhau, bao gồm Đường dây nóng Phụ nữ Hàn Quốc, cùng với 144 cá nhân, đã tham gia vào việc gửi đơn kiến nghị. Chúng tôi tin rằng chiến dịch của chính quyền thành phố Mungyeong đã vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ nhập cư cũng như quyền mưu cầu hạnh phúc của họ ở Đại Hàn”.
Một sinh viên Việt Nam tham gia cuộc họp báo chung, diễn ra trước chiến dịch chống khuyến khích kết hôn, đã nói việc nhắm vào mục tiêu kết hôn của sinh viên Việt Nam, là kết quả của những định kiến tiêu cực. Chính sách này lộ rõ ý nghĩ cho rằng phụ nữ Việt Nam đến Đại Hàn chỉ là để cố gắng kết hôn với người Đại Hàn.
“Chúng tôi, những sinh viên đang giữ visa du học, đến Đại Hàn để nhận được nền giáo dục chất lượng cao và theo đuổi ước mơ của mình“, sinh viên này nói. “Tôi chân thành kêu gọi chính quyền Mungyeong rút lại chiến dịch. Kết hôn nên là sự lựa chọn của chính các cặp vợ chồng và do đó, chính quyền địa phương không nên coi một nhóm người cụ thể chỉ đơn giản là một phương tiện để tăng dân số”.
Sự kiện này có thể khiến cho những công dân từng sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa không khỏi ngậm ngùi cho đất nước và dân tộc mình. Vào thập niên 50 và 60 của thế kỷ 20, Đại Hàn Dân Quốc là quốc gia thuộc hàng nghèo nhất nhì Châu Á. Chính phủ và người dân Đại Hàn (cùng nhiều nước khác của Châu Á) đã xem Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là một đích đến của mơ ước. Theo tài liệu thống kê của tổ chức ECAFE (tiền thân của ESCAP, Tổ chức kinh tế và xã hội vùng châu Á - Thái Bình Dương thuộc Liên Hợp Quốc) vào năm 1954, GNP bình quân đầu người của Việt Nam Cộng Hòa là 117 USD trong khi đó Thái Lan vào năm 1952 là 108 USD, còn Nam Dương là 88 USD. Với dân Đại Hàn thì đến năm 1955 mới đạt được con số 55 USD.
Sau non nửa thế kỷ bị cưỡng ép “tiến lên” Chủ Nghĩa Xã Hội, người Việt Nam hôm nay bị chính quyền một thành phố nhỏ của Đại Hàn coi thường đến như vậy, trong khi chóp bu Ba Đình thì vẫn huyênh hoang “đất nước chưa bao giờ được như thế này”.
Một sinh viên Việt Nam tham gia cuộc họp báo chung, diễn ra trước chiến dịch chống khuyến khích kết hôn, đã nói việc nhắm vào mục tiêu kết hôn của sinh viên Việt Nam, là kết quả của những định kiến tiêu cực. Chính sách này lộ rõ ý nghĩ cho rằng phụ nữ Việt Nam đến Đại Hàn chỉ là để cố gắng kết hôn với người Đại Hàn.
“Chúng tôi, những sinh viên đang giữ visa du học, đến Đại Hàn để nhận được nền giáo dục chất lượng cao và theo đuổi ước mơ của mình“, sinh viên này nói. “Tôi chân thành kêu gọi chính quyền Mungyeong rút lại chiến dịch. Kết hôn nên là sự lựa chọn của chính các cặp vợ chồng và do đó, chính quyền địa phương không nên coi một nhóm người cụ thể chỉ đơn giản là một phương tiện để tăng dân số”.
Sự kiện này có thể khiến cho những công dân từng sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa không khỏi ngậm ngùi cho đất nước và dân tộc mình. Vào thập niên 50 và 60 của thế kỷ 20, Đại Hàn Dân Quốc là quốc gia thuộc hàng nghèo nhất nhì Châu Á. Chính phủ và người dân Đại Hàn (cùng nhiều nước khác của Châu Á) đã xem Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là một đích đến của mơ ước. Theo tài liệu thống kê của tổ chức ECAFE (tiền thân của ESCAP, Tổ chức kinh tế và xã hội vùng châu Á - Thái Bình Dương thuộc Liên Hợp Quốc) vào năm 1954, GNP bình quân đầu người của Việt Nam Cộng Hòa là 117 USD trong khi đó Thái Lan vào năm 1952 là 108 USD, còn Nam Dương là 88 USD. Với dân Đại Hàn thì đến năm 1955 mới đạt được con số 55 USD.
Sau non nửa thế kỷ bị cưỡng ép “tiến lên” Chủ Nghĩa Xã Hội, người Việt Nam hôm nay bị chính quyền một thành phố nhỏ của Đại Hàn coi thường đến như vậy, trong khi chóp bu Ba Đình thì vẫn huyênh hoang “đất nước chưa bao giờ được như thế này”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét