VỀ TRUYỆN “BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC”
Hoàng Quốc Hải - Thật đau xót, trong lúc đất nước đang gặp vô vàn khó khăn. Ngoài kia, biển đảo của ta một phần bị cưỡng chiếm, phần còn lại luôn luôn trong tình trạng bị uy hiếp.(...). Bỗng nhiên xuất hiện nhiều hiện tượng lạ hoắc khiến người dân lo lắng hoang mang. Nào tích hợp môn lịch sử trong trường phổ thông. Nào cải tiến chữ quốc ngữ. Nào Quang Trung thật giả… Nay lại đến Trần Ích Tắc là người yêu nước, phải hy sinh cả tiền tài và danh vọng… Rồi An Tư hợp tác với kẻ thù, che chở cho Thoát Hoan khỏi bị quân ta bắt sống, và cùng y trong cuộc chạy trốn đẹp như mơ.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải. Ảnh: Internet.
Tễu Blog: Bài này đã đăng báo Văn Nghệ số 4 93023), ra ngày 27.1.2018, phát hành cả nước từ ngày 25.1.2018. Bản tác giả gửi đến Văn Nghệ và các trang mạng có tiêu đề là "Về truyện Bắt đầu và Kết thúc", nhưng bị Báo Văn Nghệđổi thành "Về truyện Mở đầu và Kết thúc". Đọc cái tiêu đề của Văn Nghệ, người ta sẽ bảo: ông lão lẩm cẩm, đến cái tên truyện còn ghi nhầm thì còn viết bài phê phán cái gì! Báo Văn Nghệ thâm thật! Hay là có nội gián?Mấy năm nay, nhiều nguồn tin không thể kiểm chứng tải về từ nhiều nước, trong đó chủ yếu từ Trung Quốc do người có học đi du lịch đem về. Trong đó họ nói,Trần Ích Tắc trá hàng để làm tình báo, Trần Quốc Toản không phải hy sinh khi truy đuổi giặc bên bờ sông Như Nguyệt, mà ông chỉ bị thương, giặc bắt đưa ông về Tàu. Ông qui thuận, nên được trọng đãi. Hiện con cháu ông rất thành đạt. Họ đã được xem cả gia phả, tộc phả của cả gia quyến Trần Ích Tắc và Trần Quốc Toản. Nhưng khi hỏi bằng chứng thì chẳng ai có bằng chứng gì. Có kẻ còn khẳng định: Chỉ riêng tôi có tài liệu gốc, tôi sử dụng cho riêng tôi, tại sao tôi phải chứng minh cho mọi người. Lý sự thế, thì đúng là giả mạo rồi, nhà nghiên cứu, nhà khoa học, không ai làm như vậy. Thế mà nhiều người vẫn nhắm mắt tin theo, rồi phao tin đồn nhảm.
Liệu ta có thể tin, giặc đủ bình tĩnh bắt sống Trần Quốc Toản đưa về Tàu, trong khi chúng hết sức hoảng loạn tháo chạy bởi quân ta truy kích. Đến nỗi tổng chỉ huy Thoát Hoan còn phải chui vào rọ, chịu cho lính kéo đi như kéo một con chó.
Luận điệu này là đòn tâm lý chiến, nó khuyến khích những kẻ khờ khạo tin theo, rằng theo giặc sẽ đời đời phú quí, dòng dõi dài lâu.Thật là hiểm độc.
Tên bài viết bị Văn Nghệ đổi thành "Về truyện Mở đầu và Kết thúc"
Nhân nói đến truyện ngắn BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC của nhà văn Trần Quỳnh Nga, tôi không phải người đầu tiên phát hiện ra truyện này. Bởi hạ tuần tháng chạp năm ngoái (2017), tôi vào Sài Gòn, khi chúng tôi đang thắp hương ban thờ cố nhà văn Hồng Duệ tại Thủ Đức, thì có chuông điện thoại. Nhà nhiếp ảnh Đỗ Kha từ Quảng Ninh hỏi tôi với giọng gay gắt: Anh đã đọc truyện ngắn “Bắt đầu và kết thúc” trên Văn Nghệ số 50 chưa? Rồi anh xổ ra một tràng đầy bức xúc và giận dữ, không cho tôi nói xen vào. Kết thúc anh hỏi: “Ý kiến anh thế nào?”. Tôi nói chưa đọc số báo đó và tôi đang ở Sài Gòn. Về Hà Nội, tôi tìm đọc. Đọc xong tôi thấy băn khoăn quá, liền gọi điện cho thư ký tòa soạn Lương Ngọc An, vài hôm sau lại gọi cho Tổng biên tập Khuất Quang Thụy. Cả hai nhà văn đều hỏi tôi có chuyện gì. Tôi nói, tôi không yên tâm về nội dung truyện “Bắt đầu và kết thúc”, và rằng tôi sẽ viết ý kiến của mình gửi đến Tòa soạn. Các bạn rất vui vẻ khuyến khích - Vậy anh viết đi. Tôi chưa kịp viết thì trên các mạng xã hội đã có phản ứng. Các ý kiến khen chê trao đi đổi lại thật là sôi động, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh.
Như đã hứa với hai vị chịu trách nhiệm tờ báo, nên tôi viết bài này.
Trước hết, tôi xin cung cấp một vài chi tiết đã được lịch sử của ta và cả lịch sử của Trung Hoa khẳng định một cách ổn định từ hơn 700 năm qua. Đó là:
Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện… đã được lịch sử Việt Nam coi chúng là lũ bán nước, đầu hàng giặc. Đương thời nhà Trần đã đưa chúng ra khỏi hoàng tộc, tịch thu điền sản và gọi chúng là Ả Trần.
Trong khi đó triều đình nhà Nguyên lại coi chúng là những hàng thần có công.
Ví dụ Trần Ích Tắc được chép trong An Nam chí lược của Lê Tắc như sau:
“Năm Ất dậu (1285), Ích Tắc đem gia quyến đầu hàng Trung Quốc. Tháng 5 theo Vương sư (tức là theo quân của Thoát Hoan) về Tàu. Mùa thu vào bệ kiến. Mùa xuân tháng hai năm Bính tuất (1286) hiệu Chí Nguyên, vua Thế tổ thương Tắc có lòng trung hiếu, đặc ân phong cho tước An Nam vương, Quang lộc đại phu, ban cấp phù ấn, cho tiền 5.000 quan. Con trưởng tên Bá Y, được phong chức Gia nghị đại phu lĩnh An vũ sứ lộ Đà Giang (hư chức) ban cho áo mũ cung tên, yên cương và ngựa” (An Nam chí lược của Lê Tắc, tr.253, NXB. Lao Động, 2009).
Như vậy cha con người này được vua nước giặc ban tước lộc ưu trọng đã rõ ràng.
Nên nhớ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên năm 1285, sinh mệnh nước ta vô cùng nguy hiểm như chuông treo chỉ mảnh. Thế mà trong lúc Toa Đô phá vỡ cửa quan Nghệ An, vây quân ta từ hai mặt bắc, nam, khiến tình thế cực kỳ gian nan, điêu đứng. Giữa lúc ấy đầu têu theo giặc là Trần Ích Tắc, Trần Kiện rồi kéo theo cả một lũ thân vương, quốc thích ra hàng giặc. Riêng phủ binh của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chương Hiến hầu Trần Kiện mỗi nơi có tới 20.000 quân theo chủ ra hàng giặc. Trần Kiện còn dẫn Toa Đô đi vây bắt chú mình là Chiêu Minh vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, đẩy mệnh nước vào chỗ nguy hiểm tột cùng.
Một người tiếp tay cho giặc, làm nguy thế nước như vậy, sao lại gọi là có công được.
Trên thực tế vấn đề nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc đã được lịch sử liệt hạng phản quốc một cách ổn định, không còn gì ẩn khuất mà phải giải mã. Cũng không có ai tôn vinh nhân vật này hoặc đưa y vào điện thần mà phải giải thiêng, giải ảo. Vậy tại sao truyện lại viết Trần Ích Tắc như một người có công với nước vậy?
Đã gọi là tiểu thuyết, kể cả tiểu thuyết lịch sử thì yếu tố hư cấu là phương pháp giúp tác giả hoàn thiện nhân vật, hoàn thiện kết cấu của tiểu thuyết. Nhưng hư cấu như thế nào cho nhân vật và cả tiểu thuyết đạt tới chân thực lịch sử, chứ không phải hư cấu đến phản lịch sử.
Về công chúa An Tư thì từ tháng 2 năm 1285, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sai đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh tôn) đến cho Thoát Hoan, là có ý muốn làm thư bớt tai nạn của nước vậy”. Đây là lần cuối cùng An Tư xuất hiện trong chính sử rồi bặt tăm tích.
Về nhân vật An Tư, vì có sự nhầm lẫn về việc nàng có hai con với Thoát Hoan, nên đã có người viết tiểu thuyết, coi như An Tư an phận sống với tên tướng giặc trong một cuộc đời buồn tẻ với hai người con mà lòng luôn hướng về cố quốc.
Sự thật không phải Thoát Hoan lấy em Trần Ích Tắc, mà y kết hôn với em gái Trần Tú Viên. Việc này đã được Lê Tắc là lại viên thuộc phủ Trần Kiện, chủ tớ cùng ra hàng giặc. Sau Lê Tắc viết An Nam chí lược, giúp ta có nhiều tư liệu khả tín về nhà Trần mà y là chứng nhân.
Việc này trong An Nam chí lược, quyển 13, phần “Nội phụ hầu vương”, tức các vương hầu nội phụ. Lê Tắc đã cẩn thận chép riêng phần của mỗi người.
Phần về Trần Tú Viên, có đoạn chép liên quan đến Thoát Hoan như sau: “… Minh niên hoàn cư Bộc Dương. Trấn Nam vương sơ nạp kỷ muội Trần Thị vi thứ phi sinh tông tử nhị. Chí Nguyên Ất sửu hạ ngũ nguyệt tốt ư Túy Sơn…”
(Năm Bính tý 1336), trở về Hán Dương. Trấn Nam vuơng cưới người em gái làm thứ phi, sinh được hai con. Tháng năm Ất sửu (1337) hiệu Chí Nguyên, Tú Viên mất ở Túy Sơn…)
Vậy “kỷ muội” ở đây là em gái của Trần Tú Viên chứ không phải em gái của Trần Ích Tắc. Vả lại nếu An Tư còn sống tới lúc này, tuổi cũng đã tới sáu, bảy mươi, sao còn lọt mắt Thoát Hoan để y cưới làm thứ phi.
Cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, có người đưa từ Nhật Bản về. Nhưng giới học giả thời ấy khinh ghét nhân cách Lê Tắc, chê y là kẻ bán nước nên không thèm chuyển ngữ. Học giả Trần Thanh Mại năm 1939 đã viết bài đăng trên tạp chí Tao Đànsố 3.Trong đó ông phê phán: “Một nhà viết sử bán nước, một quyển sử nhục nhã, Lê Tắc và quyển An Nam chí lược của y”.
Mãi tới năm 1960,Viện Đại học Huế mới khởi dịch với sự tài trợ của quỹ Văn hóa Á Châu. Bản hiện đang lưu hành, in lại từ bản dịch này.
Về An Tư, đoạn kết tác giả viết: “…Quân triều đình đã vây kín mọi lối thoát. Cánh cửa phòng nàng bật mở. Trong tíc tắc, An Tư như bừng tỉnh. Nàng vùng dậy kéo tấm chăn bằng lụa điều rồi đẩy Thoát Hoan vào đó……..Trong đêm tối tịch mịch có hai người vội vã rời khỏi kinh thành. Ngựa phi nhanh như gió. Sau lưng họ, hoa đào rụng trắng như tuyết dưới ánh trăng suông ướt át…”. Đây là một lớp cải lương đầy kịch tính, cực tả một tình yêu mù quáng. Nhưng lại đẩy An Tư trở thành tên đồng lõa với kẻ thù dân tộc, che chở và cùng y chạy trốn. Hành vi ấy là phản bội Tổ quốc, chống lại cuộc chống xâm lược của toàn dân.
Thực tế lịch sử không phải vậy. Thực tế, trên khắp các mặt trận giặc bị dồn vào thế có nguy cơ bị tiêu diệt, buộc Thoát Hoan phải cho đại quân tháo chạy. Trên đường chúng rút lui, bị quân ta truy kích rất ác liệt. Trần Kiện đã bị dân binh của Nguyễn Địa Lô bắn chết khi y núp bóng quân thù chạy trốn. Gia đình Trần Tú Viên từ cha mẹ đến con cháu y chết tới tám người. Y phải đau đớn thốt lên:
Tam thế, bát tang thiên cổ thống
Nhất thân vạn lý bách thiên cơ
(Ba đời chịu tám tang đau thương nghìn thuở
Một mình ngoài muôn dặm cô quạnh trăm năm)
Cuộc truy đuổi giặc hết sức hào hùng, giặc sợ hãi tới mức phải đưa Thoát Hoan chui trong rọ tre, ngoài bọc đồng lá để tránh tên đạn, cho quân khiêng hoặc kéo lê trên mặt đất như kéo một chiếc rọ chó. Các tướng hùm sói như Lý Hằng, Lý Quán trực tiếp cầm quân che chở cho Thoát Hoan đều bị trúng tên mà chết.
Sự thật chiến trận là vậy. Sự thật lịch sử là vậy. Cả sử ta và sử giặc đều chép như vậy. Sao tác giả truyện lại mô tả An Tư như một thứ tội đồ. Điều này không chỉ trái với sự thật lịch sử, mà nó còn xúc phạm cả phẩm giá của An Tư, và phủ định chiến công có một không hai của quân dân Đại Việt thế kỷ 13.
Đành rằng nhà văn viết truyện lịch sử chứ không phải nhà chép sử. Nhưng tất cả đều không thể vượt qua cái ngưỡng là sự thật. Giới hạn của hư cấu chính là đạt tới chân thực chứ không phải xuyên tạc sự thật hiển nhiên.
Thật ra truyện này viết với bút pháp nghệ thuật rất bình thường, kết cấu lủng củng, kiến thức non kém.Nhưng nếu không có việc nó gây ra tác hại khôn lường thì cũng chẳng ai quan tâm làm gì. Tác hại này có thể nằm ngoài ý muốn của tác giả.
Gần đây người Trung Hoa, đang dấy lên khuynh hướng lật đổ chính sử. Bởi sử Trung Hoa xưa có những chương đen tối. Dân tộc Trung Hoa bị ách đô hộ ngoại bang bởi người Mông Cổ và người Mãn Thanh.Vì vậy sử họ viết người Mông Cổ và người Mãn Thanh đều là giặc của Trung Hoa.
Nhà Minh diệt nhà Nguyên, là người Trung Hoa đánh đuổi quân xâm lược và ách đô hộ của Mông Cổ.
Cách mạng Tân hợi (1911), là người Trung Hoa nổi dậy, đánh đuổi ách đô hộ của Mãn Thanh. Nay nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, công nhận hai kẻ thù dân tộc ấy là tổ tiên của họ,và coi hai triều đại đó là chính thống.Vì vậy mới có chuyện đạp đổ chính sử để viết lại lịch sử. Đó là chuyện của nước người ta.
Liệu có phải đang có chuyện chấp chới bắt chước người ta, biến kẻ thù dân tộc thành ân nhân lịch sử, biến kẻ phản quốc thành anh hùng dân tộc, còn anh hùng dân tộc trở thành tội đồ lịch sử ? Rất mong được giải thích.
Năm 1279, đế quốc Nguyên đánh trận cuối cùng, tiêu diệt nhà Nam Tống, chúng dìm chết hơn mười vạn quân Tống trên biển Nhai Sơn (Quảng Đông Trung Quốc). Để tránh nỗi đau quốc nhục, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu, cõng vua Tống là Tống Cung đế mới sáu tuổi nhảy xuống biển tự tử, không cho giặc bắt làm tù binh. Lúc này đế quốc Mông Cổ đã làm chủ một dải đất liền từ bờ Hắc Hải tới Thái Bình Dương, bao gồm nhiều quốc gia với diện tích tới 24 triệu km2, chiếm 16% diện tích Địa cầu. Lúc này hai đại quốc như Trung Hoa và Nga đều nằm dưới ách thống trị của người Mông Cổ.
Hốt- tất- liệt nắm một đội cường binh với các tướng lĩnh hùm sói, khắp bốn phương không hề gặp đối thủ xứng tầm. Tổng lực ấy quay sang xâm chiếm Đại Việt. Chúng uy hiếp và đòi ta phải thực hiện 6 điều, nếu chấp nhận chỉ một trong 6 điều đó, là nước mất chủ quyền, là thuộc quốc của nhà Nguyên. Một trong 6 điều đó là nước ta phải cung cấp lương thảo, quân lính và cho mượn đường sang đánh Chiêm Thành.
So sánh lực lượng giữa ta và địch vào thời điểm đó, chẳng khác gì so trứng với đá.
Không khuất phục kẻ thù, và muốn thắng được chúng, Nhà Trần đã dùng kế của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, là vườn không nhà trống, khiến giặc vào không kiếm được thứ gì nuôi sống quân nó, đến ngọn cỏ cho ngựa nó ăn cũng không có. Và chiến thuật thì lấy đoản chế trường, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh. Nên phải chọn chỗ địch không ngờ mà đánh: đánh phục kích, đánh tập kích, đánh nhanh rút nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện. Ngay cả khí hậu thời tiết, Trần Hưng Đạo cũng biến thành vũ khí giết giặc. Sự thông minh tài trí ấy, xuất phát từ lòng yêu nước và trí tuệ của muôn dân.
Như đã hứa với hai vị chịu trách nhiệm tờ báo, nên tôi viết bài này.
Trước hết, tôi xin cung cấp một vài chi tiết đã được lịch sử của ta và cả lịch sử của Trung Hoa khẳng định một cách ổn định từ hơn 700 năm qua. Đó là:
Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện… đã được lịch sử Việt Nam coi chúng là lũ bán nước, đầu hàng giặc. Đương thời nhà Trần đã đưa chúng ra khỏi hoàng tộc, tịch thu điền sản và gọi chúng là Ả Trần.
Trong khi đó triều đình nhà Nguyên lại coi chúng là những hàng thần có công.
Ví dụ Trần Ích Tắc được chép trong An Nam chí lược của Lê Tắc như sau:
“Năm Ất dậu (1285), Ích Tắc đem gia quyến đầu hàng Trung Quốc. Tháng 5 theo Vương sư (tức là theo quân của Thoát Hoan) về Tàu. Mùa thu vào bệ kiến. Mùa xuân tháng hai năm Bính tuất (1286) hiệu Chí Nguyên, vua Thế tổ thương Tắc có lòng trung hiếu, đặc ân phong cho tước An Nam vương, Quang lộc đại phu, ban cấp phù ấn, cho tiền 5.000 quan. Con trưởng tên Bá Y, được phong chức Gia nghị đại phu lĩnh An vũ sứ lộ Đà Giang (hư chức) ban cho áo mũ cung tên, yên cương và ngựa” (An Nam chí lược của Lê Tắc, tr.253, NXB. Lao Động, 2009).
Như vậy cha con người này được vua nước giặc ban tước lộc ưu trọng đã rõ ràng.
Nên nhớ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên năm 1285, sinh mệnh nước ta vô cùng nguy hiểm như chuông treo chỉ mảnh. Thế mà trong lúc Toa Đô phá vỡ cửa quan Nghệ An, vây quân ta từ hai mặt bắc, nam, khiến tình thế cực kỳ gian nan, điêu đứng. Giữa lúc ấy đầu têu theo giặc là Trần Ích Tắc, Trần Kiện rồi kéo theo cả một lũ thân vương, quốc thích ra hàng giặc. Riêng phủ binh của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chương Hiến hầu Trần Kiện mỗi nơi có tới 20.000 quân theo chủ ra hàng giặc. Trần Kiện còn dẫn Toa Đô đi vây bắt chú mình là Chiêu Minh vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, đẩy mệnh nước vào chỗ nguy hiểm tột cùng.
Một người tiếp tay cho giặc, làm nguy thế nước như vậy, sao lại gọi là có công được.
Trên thực tế vấn đề nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc đã được lịch sử liệt hạng phản quốc một cách ổn định, không còn gì ẩn khuất mà phải giải mã. Cũng không có ai tôn vinh nhân vật này hoặc đưa y vào điện thần mà phải giải thiêng, giải ảo. Vậy tại sao truyện lại viết Trần Ích Tắc như một người có công với nước vậy?
Đã gọi là tiểu thuyết, kể cả tiểu thuyết lịch sử thì yếu tố hư cấu là phương pháp giúp tác giả hoàn thiện nhân vật, hoàn thiện kết cấu của tiểu thuyết. Nhưng hư cấu như thế nào cho nhân vật và cả tiểu thuyết đạt tới chân thực lịch sử, chứ không phải hư cấu đến phản lịch sử.
Về công chúa An Tư thì từ tháng 2 năm 1285, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sai đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh tôn) đến cho Thoát Hoan, là có ý muốn làm thư bớt tai nạn của nước vậy”. Đây là lần cuối cùng An Tư xuất hiện trong chính sử rồi bặt tăm tích.
Về nhân vật An Tư, vì có sự nhầm lẫn về việc nàng có hai con với Thoát Hoan, nên đã có người viết tiểu thuyết, coi như An Tư an phận sống với tên tướng giặc trong một cuộc đời buồn tẻ với hai người con mà lòng luôn hướng về cố quốc.
Sự thật không phải Thoát Hoan lấy em Trần Ích Tắc, mà y kết hôn với em gái Trần Tú Viên. Việc này đã được Lê Tắc là lại viên thuộc phủ Trần Kiện, chủ tớ cùng ra hàng giặc. Sau Lê Tắc viết An Nam chí lược, giúp ta có nhiều tư liệu khả tín về nhà Trần mà y là chứng nhân.
Việc này trong An Nam chí lược, quyển 13, phần “Nội phụ hầu vương”, tức các vương hầu nội phụ. Lê Tắc đã cẩn thận chép riêng phần của mỗi người.
Phần về Trần Tú Viên, có đoạn chép liên quan đến Thoát Hoan như sau: “… Minh niên hoàn cư Bộc Dương. Trấn Nam vương sơ nạp kỷ muội Trần Thị vi thứ phi sinh tông tử nhị. Chí Nguyên Ất sửu hạ ngũ nguyệt tốt ư Túy Sơn…”
(Năm Bính tý 1336), trở về Hán Dương. Trấn Nam vuơng cưới người em gái làm thứ phi, sinh được hai con. Tháng năm Ất sửu (1337) hiệu Chí Nguyên, Tú Viên mất ở Túy Sơn…)
Vậy “kỷ muội” ở đây là em gái của Trần Tú Viên chứ không phải em gái của Trần Ích Tắc. Vả lại nếu An Tư còn sống tới lúc này, tuổi cũng đã tới sáu, bảy mươi, sao còn lọt mắt Thoát Hoan để y cưới làm thứ phi.
Cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, có người đưa từ Nhật Bản về. Nhưng giới học giả thời ấy khinh ghét nhân cách Lê Tắc, chê y là kẻ bán nước nên không thèm chuyển ngữ. Học giả Trần Thanh Mại năm 1939 đã viết bài đăng trên tạp chí Tao Đànsố 3.Trong đó ông phê phán: “Một nhà viết sử bán nước, một quyển sử nhục nhã, Lê Tắc và quyển An Nam chí lược của y”.
Mãi tới năm 1960,Viện Đại học Huế mới khởi dịch với sự tài trợ của quỹ Văn hóa Á Châu. Bản hiện đang lưu hành, in lại từ bản dịch này.
Về An Tư, đoạn kết tác giả viết: “…Quân triều đình đã vây kín mọi lối thoát. Cánh cửa phòng nàng bật mở. Trong tíc tắc, An Tư như bừng tỉnh. Nàng vùng dậy kéo tấm chăn bằng lụa điều rồi đẩy Thoát Hoan vào đó……..Trong đêm tối tịch mịch có hai người vội vã rời khỏi kinh thành. Ngựa phi nhanh như gió. Sau lưng họ, hoa đào rụng trắng như tuyết dưới ánh trăng suông ướt át…”. Đây là một lớp cải lương đầy kịch tính, cực tả một tình yêu mù quáng. Nhưng lại đẩy An Tư trở thành tên đồng lõa với kẻ thù dân tộc, che chở và cùng y chạy trốn. Hành vi ấy là phản bội Tổ quốc, chống lại cuộc chống xâm lược của toàn dân.
Thực tế lịch sử không phải vậy. Thực tế, trên khắp các mặt trận giặc bị dồn vào thế có nguy cơ bị tiêu diệt, buộc Thoát Hoan phải cho đại quân tháo chạy. Trên đường chúng rút lui, bị quân ta truy kích rất ác liệt. Trần Kiện đã bị dân binh của Nguyễn Địa Lô bắn chết khi y núp bóng quân thù chạy trốn. Gia đình Trần Tú Viên từ cha mẹ đến con cháu y chết tới tám người. Y phải đau đớn thốt lên:
Tam thế, bát tang thiên cổ thống
Nhất thân vạn lý bách thiên cơ
(Ba đời chịu tám tang đau thương nghìn thuở
Một mình ngoài muôn dặm cô quạnh trăm năm)
Cuộc truy đuổi giặc hết sức hào hùng, giặc sợ hãi tới mức phải đưa Thoát Hoan chui trong rọ tre, ngoài bọc đồng lá để tránh tên đạn, cho quân khiêng hoặc kéo lê trên mặt đất như kéo một chiếc rọ chó. Các tướng hùm sói như Lý Hằng, Lý Quán trực tiếp cầm quân che chở cho Thoát Hoan đều bị trúng tên mà chết.
Sự thật chiến trận là vậy. Sự thật lịch sử là vậy. Cả sử ta và sử giặc đều chép như vậy. Sao tác giả truyện lại mô tả An Tư như một thứ tội đồ. Điều này không chỉ trái với sự thật lịch sử, mà nó còn xúc phạm cả phẩm giá của An Tư, và phủ định chiến công có một không hai của quân dân Đại Việt thế kỷ 13.
Đành rằng nhà văn viết truyện lịch sử chứ không phải nhà chép sử. Nhưng tất cả đều không thể vượt qua cái ngưỡng là sự thật. Giới hạn của hư cấu chính là đạt tới chân thực chứ không phải xuyên tạc sự thật hiển nhiên.
Thật ra truyện này viết với bút pháp nghệ thuật rất bình thường, kết cấu lủng củng, kiến thức non kém.Nhưng nếu không có việc nó gây ra tác hại khôn lường thì cũng chẳng ai quan tâm làm gì. Tác hại này có thể nằm ngoài ý muốn của tác giả.
Gần đây người Trung Hoa, đang dấy lên khuynh hướng lật đổ chính sử. Bởi sử Trung Hoa xưa có những chương đen tối. Dân tộc Trung Hoa bị ách đô hộ ngoại bang bởi người Mông Cổ và người Mãn Thanh.Vì vậy sử họ viết người Mông Cổ và người Mãn Thanh đều là giặc của Trung Hoa.
Nhà Minh diệt nhà Nguyên, là người Trung Hoa đánh đuổi quân xâm lược và ách đô hộ của Mông Cổ.
Cách mạng Tân hợi (1911), là người Trung Hoa nổi dậy, đánh đuổi ách đô hộ của Mãn Thanh. Nay nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, công nhận hai kẻ thù dân tộc ấy là tổ tiên của họ,và coi hai triều đại đó là chính thống.Vì vậy mới có chuyện đạp đổ chính sử để viết lại lịch sử. Đó là chuyện của nước người ta.
Liệu có phải đang có chuyện chấp chới bắt chước người ta, biến kẻ thù dân tộc thành ân nhân lịch sử, biến kẻ phản quốc thành anh hùng dân tộc, còn anh hùng dân tộc trở thành tội đồ lịch sử ? Rất mong được giải thích.
Năm 1279, đế quốc Nguyên đánh trận cuối cùng, tiêu diệt nhà Nam Tống, chúng dìm chết hơn mười vạn quân Tống trên biển Nhai Sơn (Quảng Đông Trung Quốc). Để tránh nỗi đau quốc nhục, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu, cõng vua Tống là Tống Cung đế mới sáu tuổi nhảy xuống biển tự tử, không cho giặc bắt làm tù binh. Lúc này đế quốc Mông Cổ đã làm chủ một dải đất liền từ bờ Hắc Hải tới Thái Bình Dương, bao gồm nhiều quốc gia với diện tích tới 24 triệu km2, chiếm 16% diện tích Địa cầu. Lúc này hai đại quốc như Trung Hoa và Nga đều nằm dưới ách thống trị của người Mông Cổ.
Hốt- tất- liệt nắm một đội cường binh với các tướng lĩnh hùm sói, khắp bốn phương không hề gặp đối thủ xứng tầm. Tổng lực ấy quay sang xâm chiếm Đại Việt. Chúng uy hiếp và đòi ta phải thực hiện 6 điều, nếu chấp nhận chỉ một trong 6 điều đó, là nước mất chủ quyền, là thuộc quốc của nhà Nguyên. Một trong 6 điều đó là nước ta phải cung cấp lương thảo, quân lính và cho mượn đường sang đánh Chiêm Thành.
So sánh lực lượng giữa ta và địch vào thời điểm đó, chẳng khác gì so trứng với đá.
Không khuất phục kẻ thù, và muốn thắng được chúng, Nhà Trần đã dùng kế của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, là vườn không nhà trống, khiến giặc vào không kiếm được thứ gì nuôi sống quân nó, đến ngọn cỏ cho ngựa nó ăn cũng không có. Và chiến thuật thì lấy đoản chế trường, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh. Nên phải chọn chỗ địch không ngờ mà đánh: đánh phục kích, đánh tập kích, đánh nhanh rút nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện. Ngay cả khí hậu thời tiết, Trần Hưng Đạo cũng biến thành vũ khí giết giặc. Sự thông minh tài trí ấy, xuất phát từ lòng yêu nước và trí tuệ của muôn dân.
Vậy mà mô tả về cuộc chiến tranh nhân dân này, khi quân Trần đã thực hiện cuộc rút lui chiến lược. Trần Nhân tông nói trước ba quân: “Ta tạm cho giặc ngủ trọ ít đêm”. Thế mà nhà văn này lại viết: “Kinh thành thất thủ nhanh như một hơi rượu”. Thực tế ta có giao tranh với giặc ở Thăng Long đâu mà thất thủ.
Hoặc nhà văn mỉa mai: “Thăng Long kiêu sa lẫy lừng phút chốc bỗng buồn như một phế nhân”. Văn khác sử, đương nhiên là thế, nhưng về cuộc kháng chiến thần thánh này đến kẻ thù cũng không dám nhìn nhận Thăng Long như vậy. Chúng đã làm mọi cách từ tàn sát sinh linh đến đào mồ cuốc mả, nhưng cuối cùng vẫn thua nhục nhã. Các danh tướng giặc như Ô mã nhi, Toa đô, Lưu Thế Anh, A lí hải nha, Lý Hằng, Lý Quán…kẻ thì mất đầu, kẻ thì vùi xác dưới biển khơi, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng. Khí phách Thăng Long là thế đó!
Ở một đoạn khác nhà văn nhét vào miệng Trần Nhân tông những câu nói thối chí, đầy bi quan và có phần sợ giặc: “Bẩm phụ hoàng, Thoát Hoan là một người trẻ tuổi và rất dũng võ. Dưới trướng lại có những tướng tài nên trong cuộc chiến lần này ta đã vì chủ quan mà thua thế quân địch”.
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông năm 1285 và thắng chúng, nhà Trần chuẩn bị hết sức chu đáo chứ không hề “chủ quan mà thua quân giặc” như nhà văn này phê phán. Rõ là tác giả vừa không hiểu hoàn cảnh lịch sử, vừa hỗn láo xấc xược đối với một vị cứu tinh dân tộc như Trần Nhân tông.
Xét lịch trình nhà Trần chuẩn bị giữ nước như thế nào. Năm 1279, Mông Cổ diệt xong nhà Tống. Năm 1280, ta cử đoàn cống sứ, sang Yên Kinh triều cống và thăm dò. Cầm đầu là quốc thúc Trần Di Ái. Giặc giữ phái bộ ngoại giao đó, lập luôn triều đình bù nhìn, phong Di Ái làm An Nam quốc vương. Năm sau Hốt- tất- liệt sai Sài Thung dẫn Di Ái về nước cùng một ngàn quân hộ tống. Ta bắt Trần Di Ái về trị tội, đón sứ Sài Thung về tiếp tại Thăng Long, ngăn không cho quân giặc xâm phạm bờ cõi.
Đường lối ngoại giao hết sức tài tình và khôn khéo. Vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, và không rơi vào bẫy giặc khiêu khích. Năm 1282, triều đình họp tại bến Bình Than bàn kế phá giặc. Và từ ấy cho tới khi chiến tranh nổ ra, tinh thần chuẩn bị kháng chiến của toàn dân sôi sùng sục.
Các sự kiện lịch sử này, các em học sinh phổ thông đều thuộc lầu lầu, sao nhà văn này lại không biết.
Biết nói thế nào về một nhà văn trẻ dám xúc phạm tới một vị vua tài năng, nhiệt huyết và gan góc mưu trí đến phi thường, đã cứu cho cả dân tộc không rơi vào họa diệt vong. Trong ba năm đánh bại liên tiếp hai cuộc xâm lăng của một đế quốc khổng lồ, khiến cả thế giới tới nay chưa hết kinh ngạc.
Tác giả lấy lời giặc để khuyên nhủ cha ông ta: “Giá Đại Việt cứ khuất phục đi, khuất phục làm chư hầu như bao đời nay vẫn thế thì có phải chốn thiên thai này sẽ còn lại mãi mãi”. Nếu quả thực đây là lời của Thoát Hoan, thì viên tướng giặc này là một thằng đại ngu, chẳng hiểu biết gì về lịch sử Đại Việt. Y chẳng thấy từ thời Hùng Vương, trong các đền thờ từng treo đại tự có dòng chữ: UY TRẤN HOA DI. Và từ Hán-Đường-Tống-Nguyên có thời nào quân xâm lược phương Bắc không bị thua nhục nhã mỗi khi chạm tới mảnh đất này.
Và kẻ thù đem tới 50 vạn quân vào xâm lược nước ta là điều rất rõ ràng, nhưng tác giả viết lập lờ như ta mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến: “...Lại thêm việc khước từ cung cấp binh lương cho nhà Nguyên đánh Chiêm Thành, như đổ thêm dầu vào lửa làm nên cuộc chiến tranh Đại Việt lần hai. Những tưởng Đại Việt là đấng anh hào, ấy thế mà mới chỉ vài ba trận đánh nhỏ thôi đã như ong vỡ tổ…”
Từ muôn thuở, cứ mỗi khi giặc Bắc xâm lược nước ta, rồi chúng lại đổ lỗi cho ta gây chiến. Ngay cả cuộc xâm lược năm 1979 cũng không có ngoại lệ. Sau đổ lỗi là mỉa mai. Đây đích thị là luận điệu của kẻ thù, nhưng sao nó lại được viết ra từ nhà văn của chúng ta?
Không thể hiểu nổi, một nhà văn Việt Nam viết về cuộc kháng chiến thần thánh của tổ tiên mình, lại viết như vậy. Cứ xem cách nhà văn này dẫn giải chi tiết, không thể nói là chị không đọc và không hiểu lịch sử.
Đọc đến đây, tôi thấy buồn hơn là trách tác giả. Tôi loại bỏ tác giả có ý đồ xấu. Nhưng khách quan của hình tượng văn học và ngôn ngữ nghệ thuật lại nói lên điều cô không mong muốn. Sự vấp ngã này là bởi cô chưa chuẩn bị cho mình hành trang chu đáo đã vội cất bước lên đường.
Thảm họa này ở lớp trẻ không phải ngày một ngày hai mà có. Nó tích lũy từ việc coi nhẹ đến coi thường giáo dục môn lịch sử trong nhà trường. Cách đây đúng 25 năm, trường Đại học xã hội và nhân văn quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã làm một cuộc thử nghiệm, về kiến thức lịch sử với sinh viên. Kết quả trong số hơn 600 sinh viên được khảo sát, chỉ vài chục phần trăm biết vua Hùng là tổ nước ta. Trần Quốc Toản thì sinh viên trả lời hình như là nhân vật thời chống Mỹ. Còn anh hùng dân tộc nổi tiếng nhất lại là Quan Vân Trường. Thi tốt nghiệp, cả một trường trung học chỉ có một em đăng kí thi môn lịch sử. Những cảnh báo trên, dường như chẳng có ai để ý.
Vậy mà Bộ giáo dục còn định tích hợp môn lịch sử vào với các môn khác. Có kẻ còn đòi bỏ cả môn lịch sử để học sinh tự đọc sách, tự tìm hiểu lịch sử. Đương nhiên còn nhiều nguyên nhân xã hội khác, chứ không riêng việc giáo dục lịch sử.
Thật đau xót, trong lúc đất nước đang gặp vô vàn khó khăn. Ngoài kia, biển đảo của ta một phần bị cưỡng chiếm, phần còn lại luôn luôn trong tình trạng bị uy hiếp. Ngư dân đánh cá trên ngư trường của ta cũng bị chúng khủng bố, cướp giết. Các giàn khoan làm việc trên thềm lục địa thuộc chủ quyền của ta, cũng bị chúng uy hiếp. Bên trong thì tham nhũng lúc nhúc như một bầy sâu, như giặc nội xâm. Tuy lẻ tẻ có phát hiện ra và trị tội. Nhưng xử cả ngàn năm cũng không hết án. Nợ công chồng chất lên đầu lên cổ toàn dân, biết đến bao giờ trả cho hết. Hàng chục công trình ngàn ngàn tỉ nằm đắp chiếu. Nhiều nhà máy cứ khởi động là lỗ, sản phẩm không có đầu ra. Bão lụt chồng lên bão lụt, nông dân điêu đứng. Nạn ô nhiễm môi trường tràn ngập từ đầu nước đến cuối nước, đe dọa cuộc sống không chỉ hiện tại mà cả tương lai.
Bỗng nhiên xuất hiện nhiều hiện tượng lạ hoắc khiến người dân lo lắng hoang mang. Nào tích hợp môn lịch sử trong trường phổ thông. Nào cải tiến chữ quốc ngữ. Nào Quang Trung thật giả…
Nay lại đến Trần Ích Tắc là người yêu nước, phải hy sinh cả tiền tài và danh vọng… Rồi An Tư hợp tác với kẻ thù, che chở cho Thoát Hoan khỏi bị quân ta bắt sống, và cùng y trong cuộc chạy trốn đẹp như mơ.
Xin nói thẳng, thời đại nhà Trần, là thời đại hiển hách nhất trong lịch sử mấy ngàn năm của nước ta. Đó không chỉ là niềm kiêu hãnh mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả quốc gia này mỗi khi đất nước gặp khó khăn. Nó không chỉ là tinh thần mà còn là tài sản vĩnh hằng trong hành trang của dân tộc. Lịch sử, chính là hồn cốt của cả dân tộc. Nó phải được tôn kính và bảo vệ như một ngôi đền thiêng của toàn dân tộc, chứ không được phép đem nó ra mà đùa giỡn hay chọc ngoáy. Viết đến đây, sực nhớ Nhật ký của cố nhà văn đáng kính Nguyễn Huy Tưởng ghi từ năm 1941: “Người không biết lịch sử nước mình tựa như một con trâu đi cày,nó cày trên thửa ruộng nào với bất cứ ông chủ nào cũng vậy thôi”.
Hà Nội ngày 14 tháng 1 năm 2018.
Hoàng Quốc Hải
___________.
* Trên đây là toàn văn bài viết của Nhà văn Hoàng Quốc Hải gửi đến Báo Văn Nghệ và Tễu Blog. Trên Văn Nghệ khi in có cắt đi một đoạn.
Lời bình của bạn đọc:
Đặng Tiến Thế là chứng lí rõ ràng. Bọn người mất nết bỗng dở trò hí lộng lại còn nhân danh tiếng nói sáng tạo văn chương nữa mới ghê! Mình không thần thánh hóa Cụ Hoàng Quốc Hải, nhưng ông là người kiến văn sâu rộng, nên phát biểu của ông, sách ông viết độ tin cậy cao. Còn mấy người cầm bút kia hãy nhớ một điều: Tàu nó có thể diệt cả 9 họ người đồng bào của nó thì hà cớ gì chúng lại nuôi dưỡng cho tập đoàn bán nước Ích Tắc - Di Ái - Tú Viên? Rồi nữa, chúng không "vô tình" đâu khi chèo kéo dân ta sang Đông Hưng dự hội đền thờ Mã Viện với cái tượng họ Mã đạp lên đầu hai người đàn bà mà chúng bảo là Nhị Trưng! Ông nhà văn chuyên dịch sách Trung Quốc sang tiếng Việt khẳng định: Chơi với Tàu thì luôn phải cảnh giác! Ông Khơ rut sốp hồi trước bảo: trên thế giới này chỉ có những thằng ngu mới tin vào Bắc Kinh! Cảm ơn TS Nguyễn Xuân Diện đã đánh máy bài viết của Hoàng công để anh em có dịp đọc kĩ ý kiến của một nhà văn lão thành!
Dũng Trung Kqd Ý kiến của cụ thật tuyệt vời, đáng nể trọng! Đội ơn cụ!
Nghiem Truong Rất khúc triết, rạch ròi để soi rõ bộ mặt những kẻ đã, đang rắp tâm bẻ quẹo Lịch sử cho mưu đồ thâm độc, tà ác của những thế lực hắc ám. rất cảm ơn Cụ và xin chia sẻ để mọi người cùng tỏ tường.
Mỹ Thuận Diễn Nghĩa Cả dân tộc phải cảnh giác con nội gián Trần Quỳnh Nga này ạ.Đích thị ả là bồi bút ăn phải bả Tàu rồi. Từ ả nó sẽ nhân giống lên rất nhanh. Một căn bệnh bênh nan y lây lan rất ghê gớm mà ta chưa có thuốc đặc trị.
Hai Thieu Con này nó có đọc đại việt sử ký toàn thư đâu mà nó biết quan quân nhà trần đánh thắng quân nguyên.nó nói láo thế mà ông khuất quang thụy vẫn cho đăng báo
BửuNam NguyễnPhước Ý kiến hay, chính xác kiến văn rộng, lập luận chặt chẽ, đặc biệt là hồn cốt yêu trọng sự chân xác lịch sử, trách nhiệm công dân và người viết tiểu thuyết lịch sử muốn thổi hồn tự hào dân tộc như chỗ dựa vững chắc trong tình thế cheo leo nhiều người muốn lập lờ không cảnh giác ,muốn đổi trắng thay đen, kể cả giới nghiên cứu sử ,nhà văn , nhà thiết kế giáo dục mà sau đó ẩn hiện một số chính khách ăn phải bả công danh ham mê quyền chức !
Tran Tuan Bài viết chặt chẽ, phân tích sâu, kết nối sự kiện rất logic, cho thấy một âm mưu tàn phá sâu ại lịch sử dân tộc đã và đang được thực hiện. Bắt đầu và Kết thúc của Trần Quỳnh Nga rất có thể được viết bởi một kẻ trong dã tâm đó! TQB viết, hay đchỉ là ứng tên mà thôi?
Chu Văn Sơn Rất đáng tiếc cho báo Văn Nghệ !
Ham Vui Tran (Trần Nhương): Tít bài Mở đầu là của báo VN. Đây là ảnh chụp bài gốc anh Hoàng Quốc Hải gửi meo cho tôi ngày 16-1 .
LS Trịnh Vĩnh Phúc "...Thời đại nhà Trần, là thời đại hiển hách nhất trong lịch sử mấy ngàn năm của nước ta. Đó không chỉ là niềm kiêu hãnh mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả quốc gia này mỗi khi đất nước gặp khó khăn. Nó không chỉ là tinh thần mà còn là tài sản vĩnh hằng trong hành trang của dân tộc. Lịch sử, chính là hồn cốt của cả dân tộc. Nó phải được tôn kính và bảo vệ như một ngôi đền thiêng của toàn dân tộc, chứ không được phép đem nó ra mà đùa giỡn hay chọc ngoáy...” (Nhà văn, nhà sử học Hoàng Quốc Hải).
Thi Dao Tien Vô cùng cảm ơn nhà văn Hoàng Quốc Hải.
Thanh Vân Lê Lý giải của Cụ thật thấu đáo! Tác phẩm văn học sử, dù có hư cấu trong sáng tác, cũng phải tôn trọng và lấy sự thật lịch sử làm căn bản để hoàn thiện lịch sử; không thể vì nguồn tư liệu không có căn cứ, mà tôn vinh một kẻ bán nước, cam tâm làm tay sai cho giặc. Hậu quả thật khôn lường!
Văn Nguyên Lương Một bài viết quá hay!
PGS.TS Ngô Văn Giá Lập trường dứt khoát, kiến văn sâu rộng, lập luận đanh thép, giàu lòng khoan dung. Không phải lúc nào cũng vậy, riêng trường hop này, tôi đứng về phía ông già tiêu thuyết lịch sử, nhà văn lão thành Hoàng Quốc Hải!
TS Chu Văn Sơn Ý kiến công tâm, uyên bác và đầy trách nhiệm trước lịch sử, văn chương và người viết trẻ. Rất đáng nể trọng !
GS. TS Trần Đình Sử Một bài viết sâu săc, bằng chứng cụ thể, thái độ rõ ràng. Cảm ơn nhà văn Hoàng Quôc Hải.
PGS. TS Phạm Quang Long Rất tán thành quan điểm của nhà văn Hoàng Quốc Hải
TS Chu Mộng Long Từ đầu đến cuối chỉ thấy các loại ông bà bênh vực cho Trần Quỳnh Nga theo cách khen "văn tài" của cô ta nhưng không chỉ ra được "tài" chỗ nào. Riêng Phạm Lưu Vũ, Lê Anh Hoài thì nói trỏng trỏng "lý thuyết trò chơi hậu hiện đại" mà cũng không chỉ ra được hậu hiện đại ở đâu trong cái truyện đó. Chủ yếu chửi những người phê bình là ngu, dốt, cổ hũ. Riêng nhà thơ, nhà giáo Bảo Thương xinh ẹp thì chửi Chu Mộng Long là Nặng Mông, "chưa có danh" mà sao dám phê bình những "các chú, các bác Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa... đã thành danh". Câu này của ẻm hay nhất: "máu giặc cũng là máu ta", "các người xem máu anh Thoát Hoan là máu giặc là độc ác lắm"! Hãi.
Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi Người nói câu này "máu giặc cũng là máu ta", "các người xem máu anh Thoát Hoan là máu giặc là độc ác lắm"! chắc hẳn người có gốc máu thuần Mông, vì ngay người Hán cũng coi vua tôi Mông Cổ thời đó là giặc. Ôi, th mà có bình luận cô ấy tự nhận mình là người "nổi tiếng".
Thạc sĩ Đặng Tiến : Bảo Thương là cô giáo văn á? Thảo nào có truyền ngôn "chuột chạy cùng sào...". Chán.
TS Chu Mộng Long Hoan hô bác Hoàng Quốc Hải! Tôi từng hỏi nhà Trần là bên thắng cuộc, giữ cơ nghiệp hơn vài trăm năm mà sao không giải oan cho Trần Ích Tắc? Đến bài của bác Hải thì chỉ cần một câu: Vì sao con cháu Trần Ích Tắc và những người chạy theo giặc không có lời nào tự giải oan trong "gia sử" của họ để phải mang nhục muôn đời? Nếu thật là "văn tài" thử giải điều này có thuyết phục hơn là đi ca ngợi Trần Ích Tắc với Thoát Hoan?
Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi Bài viết với kiến văn sâu rộng, chứng kiến rõ ràng, xác đáng. Ngay từ đầu tôi đã bình về truyện ngắn này với 2 chữ XOÀNG và SAI. Xưa nay sáng tác văn học về đề tài lịch sử, dù ở thể truyện ngắn hay tiểu thuyết cỡ Chiến tranh và hòa bình, tôi thấy các tác giả chỉ dụng thuật hư cấu về "cảnh và sự", còn bản chất của "sự" - sự kiện, sự việc thì không làm thay đổi. Nếu ví nghệ thuật dựng chuyện là bông hoa, thì sự thật lịch sử, như đã biết, là giống cây, cội rễ của đài hoa đó.
https://xuandienhannom.blogspot.com/2018/01/hoang-quoc-hai-ve-truyen-bat-au-va-ket.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét