Gửi nhà văn quốc doanh
fb Nguyễn Thông 30-11-2020 - Nhà cháu nói ngay, không phải là chống lưng. Cả đời đứng thẳng, không cần chống chiếc gì. Chả là hôm trước hứa đưa bài về nhà văn quốc doanh lên, sắp xong bèn chủ quan, tí nữa… khánh thành, vội gì, đi bưng cái chậu cây ra đằng sau đã. Cụp lưng, đau hơn cả A Phủ bị thằng A Sử đánh. Mất toi 3 ngày, không dám lách tách phím phiếc máy miếc. Giờ thì lên trước kỳ 1, còn kỳ 2 nhanh hay chậm tùy lưng.Cảnh bỏ phiếu bầu chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam được báo
trong nước mô tả hỗn loạn như một cái chợ. Ảnh: Báo Tiền Phong
Gửi các nhà văn quốc doanh,Người xưa từng cẩn thận dạy đám hậu sinh, bằng cách nói hình tượng hay đáo để, rằng “con chim trúng “đạn” (tiễn, tên) sợ làn cây cong”. Thời bây giờ, nhìn cái gì cũng giống cánh cung. Nhà cháu cứ tiếp thu, không bổ ngang thì bổ dọc.
Chả là bữa trước, trúng ngày khai mạc hội văn bút quốc gia hoành tráng ở đê La Thành, quả nhân (người ít đức) đưa cái tút đụng chạm, thế là bị mắng tới tấp, kiểu như ông có chê cả làng Vũ Đại thì cũng phải trừ ABC ra chứ. Vậy nên lần này nhà cháu chỉ quan tâm tới mấy nhà văn quốc doanh, nhân viên văn mậu dịch thôi, kẻo những người có mác văn sĩ lại động lòng.
Nói cho vuông, đâu phải cứ nhà văn là… xấu, như ta vẫn rỉ tai nhau, đảng viên cũng có ối người tốt. Ông em rể tôi, dù bị kết nạp đảng từ lúc chưa hiểu mấy về đảng, giờ đã hơn 40 tuổi đảng (rất kinh), nhưng công nhận tốt cực kỳ. Nhà văn cũng thế, tôi chơi, quen với nhiều người văn, già có trẻ có, biết và hiểu họ, văn lẫn người, thấy họ tốt lắm. Mà ngay cả văn sĩ thi sĩ quốc doanh vẫn không ít người tử tế đàng hoàng.
Ông Nguyễn Việt Chiến thi sĩ ở thủ đô là một ví dụ. Ông em Nguyễn Một, bà chị Nguyễn Thị Ngọc Hải trong Sài thành là ví dụ nữa. Hôm trước, có may mắn gặp, trò chuyện, thậm chí còn liều bá vai bá cổ chụp ảnh chung với hai lão tướng Nguyễn Đông Thức, Lê Văn Nghĩa, về nhà ngẫm nghĩ mãi, sao các vị nổi tiếng tài hoa giỏi giang mà đức độ hiền lành khiêm tốn dễ chịu thế nhỉ. Tự cấu lên trán nhủ thầm, mình mà có cái danh của hai đấng bậc ấy lại chả một tấc đến giời.
Trên thế giới, chẳng riêng xứ ta có hội nhà văn. Toàn cầu còn rảnh rỗi lập ra hội văn bút quốc tế nữa là. Chỉ có điều, ở những nơi văn minh dân chủ, nó chỉ là thứ hội đoàn chuyên ngành, hội nghề nghiệp, vui thì tụ họp với nhau, chẳng liên quan tới đường lối chính sách, chính trị chính em, chỉ đạo định hướng này nọ. Lại càng không dính gì đến ngân sách tiền thuế do dân đóng góp, không đòi hỏi được cấp nhà cấp xe. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
Không sống được bằng ngòi bút (bàn phím) thì hội viên tự đi nuôi ong, trồng nấm, chạy xe uber, grab. Hội nhà văn của họ cũng chỉ na ná như hội nuôi ong, hội trồng nấm, hội đái tháo đường, phận nào việc nấy, thế thôi. Còn đủ thứ hội, đoàn thể đang tồn tại ở ta, vốn là con đẻ của cộng sản, của phe xã hội chủ nghĩa, sống bám vào thể chế, đã bị ném vào sọt rác lịch sử, nay chỉ còn ngắc ngoải vài nơi trước khi bị cáo chung. Lạ là vẫn có những người tự đắc về thứ danh vị hão huyền.
Đại hội La Thành 2020 đương nhiên thành công tốt đẹp, giống như mọi đại hội thành công tốt đẹp ở xứ này.
Một ông chủ tịch già giữ ghế chủ hội những 20 năm khi buộc phải rút vẫn được khen ngợi là biết điều, thì thứ gì mà chả thành công. Ngay trong sự ồn ào náo nhiệt vui vẻ của giới cầm bút, không khó nhận ra những điều hết sức cổ hủ, chả thay đổi gì so với mấy chục năm trước. Ông tân chủ tịch Nguyễn Quang Thiều dù đã lập ngôn hứa hẹn, đặt cược lòng tin, nhưng liệu ai dám tin khi bản chất hội không thay đổi. Vẫn là hội quốc doanh, vòng kim cô định hướng to tướng thít chặt trên đầu.
Có điều, khác với Tôn Ngộ Không bị lừa, còn các nhà văn quốc doanh tự nguyện đội vòng, nên những thế lực đường tăng, quan âm bồ tát, phật tổ, tuyên giáo đều hiểu rằng, đâu cần niệm chú thì họ vẫn ngoan. Nhà văn ngoan, viết ngoan, hoặc ngoan ngoãn không viết gì, thì chỉ đám cai trị được lợi, còn dân chúng và xã hội chịu thiệt. Khi tôi biên một bộ phận người cầm bút là nhà văn quốc doanh, vài người cằn nhằn nói thế hơi quá. Tôi vẫn cho thế là còn nhẹ.
Văn nhân lâu nay được đánh giá là tầng lớp đẳng cấp, lực lượng có bản lĩnh, khí phách, ngang tàng, dùng ngòi bút khắc vào lịch sử. Mà cũng lạ, không hiểu ông Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo tuổi gì lại dám đến chỉ đạo, khuyên bảo các bậc đàn anh đàn chị chỉ kém ông mỗi tiêu chuẩn chức sắc.
Những gạo cội, đấng bậc Nguyễn Khoa Điềm, Vũ Bão, Nguyễn Việt Chiến, Trần Đăng Khoa, Sương Nguyệt Minh, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Bảo Ninh, Nguyễn Hiếu… không phải thứ đối tượng cần được giác ngộ, cầm tay chỉ việc. Họ đã vượt trên, thoát ra ngoài tầm mậu dịch viên văn chương từ lâu rồi. Họ dự bởi họ là hội viên.
Nhẽ ra khi được bề trên phân công “thay mặt đảng” theo thói thường lâu nay, ông phải biết từ chối, dù nơi tới chỉ đạo chỉ là thứ hội quốc doanh. Ngó cảnh đám đông họp chợ khi cấp trên đang đăng đàn, cắm cúi đọc “mệnh lệnh” thì phía dưới túm năm tụm ba chuyện riêng, cười cợt, rủ nhau tót ra ngoài, lại chợt nhớ sự trớ trêu ê chề của ông chủ nhiệm văn phòng quốc hội Vũ Mão tại đám tang tướng Trần Độ (tháng 8.2002) khi gia đình cụ Trần công khai tuyên bố không chấp nhận bản điếu văn do ông vừa đọc.
Tôi thương và thông cảm với ông Vũ Mão, thời ấy cơ chế nó thế. Sau mấy chục năm, tưởng rút được kinh nghiệm xương máu, hóa ra các long trọng viên vẫn u mê lề thói cũ, nhắm tịt mắt lê vào cảnh vừa bi vừa hài.
Tang lễ tướng Trần Độ. Bản thân bức ảnh này cũng là một bằng chứng lịch sử hùng hồn, nhất là chữ “ông”. Nguồn: Internet
Bi kịch của người dân Thủ Thiêm. Ảnh:: Báo TP
Nói thêm chút nữa về vụ ông trưởng ban tuyên giáo tới đại hội chỉ đạo, định hướng, dạy dỗ nhà văn phải thế này thế khác. Nếu đảng không bỏ được thói quen, lối mòn, tư duy lãnh đạo về văn nghệ thế kỷ 21 vẫn giống thời Nhân văn giai phẩm, thì nhà văn cần tỏ thái độ.
Ông Thưởng hay ông gì gì đi nữa đăng đàn thuyết giáo cho bà con nông dân hoặc mấy chú chạy xe ôm thì cứ tạm coi hợp đi, chứ với giới cầm bút thấy vênh quá. Sáng tác văn chương là thứ lao động đặc thù, không phải cứ có bằng cao cấp chính trị Nguyễn Ái Quốc là tới nói văng mạng được. Thiết nghĩ, nhà văn, dù là nhà văn quốc doanh, mậu dịch viên văn nghệ, cần biểu hiện dứt khoát trước những long trọng viên kiểu này. Các hội đoàn khác chả biết thế nào, chứ hội nhà văn nên có tiếng nói. Đừng để kéo dài “cái quay búng sẵn trên trời/mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Hồi tôi đi học, từ cấp 2 tới về sau, luôn được nghe thầy cô giáo và các nhà lý luận khẳng định chắc nịch “nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”, “nhà văn là người chép sử bằng hình tượng nghệ thuật”.
Chúng tôi tin vào tín điều ấy khi đọc những Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Tố Hữu…, rồi cả Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu, Huy Cận… (tác phẩm của những vị này dân chúng phải tìm và đọc lén, bởi bị nhà cai trị cấm một cách rất vô duyên). Nếu họ không mô tả, không lao vào cuộc sống, hậu sinh, thậm chí cả những người đương thời, sẽ chả biết cuộc sống tồn tại thế nào, thời đại đã quằn quại đau đớn ra sao, thân phận con người là thứ gì trong thời buổi hỗn loạn. Và biết chắc, các nhà văn nhà thơ, những “thư ký trung thành của thời đại”, những nhà “chép sử bằng hình tượng nghệ thuật” ấy đã sống hết mình với cuộc sống đương thời. Họ là nhà văn tử tế, có trách nhiệm với con người và cuộc đời, nhà văn đúng nghĩa.
Sau này, trong cuộc nội chiến Bắc – Nam, cũng vẫn có những nhà văn đúng nghĩa như vậy, tôi lấy hai vị Phạm Tiến Duật, Nguyên Ngọc làm ví dụ.
Giờ thì khác. Chỉ riêng hội nhà văn quốc doanh được nhà nước che chở đã hơn nghìn hội viên. Suốt bao năm qua, xã hội nhiều biến động, đầy bi kịch. Người dân mất đất, tan cửa nát nhà ở khắp mọi nơi, dân oan khiếu kiện, cùng quẫn, bị xô đẩy vào “bước đường cùng” hầu như vùng nào cũng có. Phần tốt đẹp của cuộc sống thì đã được truyền thông độc quyền của nhà nước phản ánh ca ngợi từng ngày từng giờ, trên tất cả các kênh, và tất nhiên họ lờ đi, ỉm đi, lướt qua những mảng xám xịt, đen tối, bi kịch.
Xã hội gần như chỉ biết trông chờ vào việc nhà văn lên tiếng, bằng lời nói và tác phẩm. Và thất vọng. Điểm lại, hầu như không có tác phẩm nào về dân oan, viết về nông dân bị cướp ruộng đất. Văn chương quốc doanh rặt màu hồng, không hề thấy những anh Pha mới, chị Dậu mới. Nói đâu xa xôi chi cho mệt, cứ ngay năm 2020 này thôi. Bi kịch Đồng Tâm sát nách đế đô đầy máu và nước mắt, oan khí bốc tận cao xanh, mạng người không bằng con kiến, cả xã hội sôi sục, lòng người bất an. Trời cũng phải giận dữ.
Chuyện đã gần năm tròn, sắp “kỷ niệm” đệ nhất chu niên sự kiện Đồng Tâm-cụ Kình, có nhà văn nhà thơ nào ra tác phẩm chưa? Không hề. Thậm chí lên tiếng vài ba câu bày tỏ thái độ cá nhân, viết mấy dòng tút trên phây búc, cũng không hề. Tôi thành thật xin lỗi nhà văn quốc doanh nào đã có lời về vụ Đồng Tâm – Nọc Nạn thời cộng sản mà tôi chưa có dịp đọc, chỉ mong sao có sự sót lọt vậy.
Nhìn xa chút nữa, 20 năm nay, gần như không mấy ai không biết chuyện đồng Nọc Nạn mới ở Thủ Thiêm Sài Gòn. Người dân thấp cổ bé miệng bị cướp đất trắng trợn, màn trời chiếu đất, nhà tan cửa nát, qua năm này năm khác. Nỗi đau Thủ Thiêm không còn nằm trong phạm vi vùng đất, cộng đồng nhỏ, mà đã mang tính quốc gia, toàn dân. Thậm chí thế giới cũng biết, cũng lên tiếng.
Thủ Thiêm giờ đây, dưới mắt nhà cai trị là khu đô thị mới, còn trong hồn dân chúng là nỗi đau triền miên, bi kịch chồng lên bi kịch. Chỉ riêng nhà văn quốc doanh không biết. Hai chục năm, hai thập niên ròng ròng hiện thực bi kịch đen tối, tịnh không có một phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tiểu thuyết, bài thơ… của họ về Thủ Thiêm.
Hay là họ có quan tâm, nhưng còn thai nghén, để nếu có ra thì phải là tác phẩm hoành tráng, trường thiên, vang động đất trời, “thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân” (rèn luyện trăm nghìn lần, mỗi lời làm mọi người kinh sợ), đoạt giải Nobel…
Cứ thai nghén chửa trâu mãi như thế, dân chúng và cuộc sống biết đợi đến bao giờ. Thứ thiếu nhất ở các mậu dịch viên văn là “mỗi câu viết ra như có máu chảy ở đầu ngọn bút”, nên họ đã im lặng.
(Còn tiếp)
Nói thêm chút nữa về vụ ông trưởng ban tuyên giáo tới đại hội chỉ đạo, định hướng, dạy dỗ nhà văn phải thế này thế khác. Nếu đảng không bỏ được thói quen, lối mòn, tư duy lãnh đạo về văn nghệ thế kỷ 21 vẫn giống thời Nhân văn giai phẩm, thì nhà văn cần tỏ thái độ.
Ông Thưởng hay ông gì gì đi nữa đăng đàn thuyết giáo cho bà con nông dân hoặc mấy chú chạy xe ôm thì cứ tạm coi hợp đi, chứ với giới cầm bút thấy vênh quá. Sáng tác văn chương là thứ lao động đặc thù, không phải cứ có bằng cao cấp chính trị Nguyễn Ái Quốc là tới nói văng mạng được. Thiết nghĩ, nhà văn, dù là nhà văn quốc doanh, mậu dịch viên văn nghệ, cần biểu hiện dứt khoát trước những long trọng viên kiểu này. Các hội đoàn khác chả biết thế nào, chứ hội nhà văn nên có tiếng nói. Đừng để kéo dài “cái quay búng sẵn trên trời/mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Hồi tôi đi học, từ cấp 2 tới về sau, luôn được nghe thầy cô giáo và các nhà lý luận khẳng định chắc nịch “nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”, “nhà văn là người chép sử bằng hình tượng nghệ thuật”.
Chúng tôi tin vào tín điều ấy khi đọc những Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Tố Hữu…, rồi cả Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu, Huy Cận… (tác phẩm của những vị này dân chúng phải tìm và đọc lén, bởi bị nhà cai trị cấm một cách rất vô duyên). Nếu họ không mô tả, không lao vào cuộc sống, hậu sinh, thậm chí cả những người đương thời, sẽ chả biết cuộc sống tồn tại thế nào, thời đại đã quằn quại đau đớn ra sao, thân phận con người là thứ gì trong thời buổi hỗn loạn. Và biết chắc, các nhà văn nhà thơ, những “thư ký trung thành của thời đại”, những nhà “chép sử bằng hình tượng nghệ thuật” ấy đã sống hết mình với cuộc sống đương thời. Họ là nhà văn tử tế, có trách nhiệm với con người và cuộc đời, nhà văn đúng nghĩa.
Sau này, trong cuộc nội chiến Bắc – Nam, cũng vẫn có những nhà văn đúng nghĩa như vậy, tôi lấy hai vị Phạm Tiến Duật, Nguyên Ngọc làm ví dụ.
Giờ thì khác. Chỉ riêng hội nhà văn quốc doanh được nhà nước che chở đã hơn nghìn hội viên. Suốt bao năm qua, xã hội nhiều biến động, đầy bi kịch. Người dân mất đất, tan cửa nát nhà ở khắp mọi nơi, dân oan khiếu kiện, cùng quẫn, bị xô đẩy vào “bước đường cùng” hầu như vùng nào cũng có. Phần tốt đẹp của cuộc sống thì đã được truyền thông độc quyền của nhà nước phản ánh ca ngợi từng ngày từng giờ, trên tất cả các kênh, và tất nhiên họ lờ đi, ỉm đi, lướt qua những mảng xám xịt, đen tối, bi kịch.
Xã hội gần như chỉ biết trông chờ vào việc nhà văn lên tiếng, bằng lời nói và tác phẩm. Và thất vọng. Điểm lại, hầu như không có tác phẩm nào về dân oan, viết về nông dân bị cướp ruộng đất. Văn chương quốc doanh rặt màu hồng, không hề thấy những anh Pha mới, chị Dậu mới. Nói đâu xa xôi chi cho mệt, cứ ngay năm 2020 này thôi. Bi kịch Đồng Tâm sát nách đế đô đầy máu và nước mắt, oan khí bốc tận cao xanh, mạng người không bằng con kiến, cả xã hội sôi sục, lòng người bất an. Trời cũng phải giận dữ.
Chuyện đã gần năm tròn, sắp “kỷ niệm” đệ nhất chu niên sự kiện Đồng Tâm-cụ Kình, có nhà văn nhà thơ nào ra tác phẩm chưa? Không hề. Thậm chí lên tiếng vài ba câu bày tỏ thái độ cá nhân, viết mấy dòng tút trên phây búc, cũng không hề. Tôi thành thật xin lỗi nhà văn quốc doanh nào đã có lời về vụ Đồng Tâm – Nọc Nạn thời cộng sản mà tôi chưa có dịp đọc, chỉ mong sao có sự sót lọt vậy.
Nhìn xa chút nữa, 20 năm nay, gần như không mấy ai không biết chuyện đồng Nọc Nạn mới ở Thủ Thiêm Sài Gòn. Người dân thấp cổ bé miệng bị cướp đất trắng trợn, màn trời chiếu đất, nhà tan cửa nát, qua năm này năm khác. Nỗi đau Thủ Thiêm không còn nằm trong phạm vi vùng đất, cộng đồng nhỏ, mà đã mang tính quốc gia, toàn dân. Thậm chí thế giới cũng biết, cũng lên tiếng.
Thủ Thiêm giờ đây, dưới mắt nhà cai trị là khu đô thị mới, còn trong hồn dân chúng là nỗi đau triền miên, bi kịch chồng lên bi kịch. Chỉ riêng nhà văn quốc doanh không biết. Hai chục năm, hai thập niên ròng ròng hiện thực bi kịch đen tối, tịnh không có một phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tiểu thuyết, bài thơ… của họ về Thủ Thiêm.
Hay là họ có quan tâm, nhưng còn thai nghén, để nếu có ra thì phải là tác phẩm hoành tráng, trường thiên, vang động đất trời, “thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân” (rèn luyện trăm nghìn lần, mỗi lời làm mọi người kinh sợ), đoạt giải Nobel…
Cứ thai nghén chửa trâu mãi như thế, dân chúng và cuộc sống biết đợi đến bao giờ. Thứ thiếu nhất ở các mậu dịch viên văn là “mỗi câu viết ra như có máu chảy ở đầu ngọn bút”, nên họ đã im lặng.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét