Trong cuộc chiến chống Corona, loài người tìm đâu một thống soái?
03/21/20 Tác giả: Yuval Harari; Biên dịch: Nhã Nhi
Trong giai đoạn dịch bệnh Ebola vào năm 2014, nước Mỹ đã đóng vai trò như một người lãnh đạo đúng nghĩa. Mỹ cũng thể hiện tương tự trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 khi tập hợp các quốc gia lại để ngăn ngừa khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng những năm gần đây, Mỹ đã từ bỏ vai trò của một lãnh đạo toàn cầu. Chính quyền Mỹ cắt giảm viện trợ cho các tổ chức đa quốc gia như Tổ chức Y tế Thế giới, và làm rõ với toàn thế giới rằng, Mỹ không muốn kết bạn thực sự với bất kỳ ai, tất cả đều dựa trên lợi ích. Khi dịch bệnh virus corona xảy ra, Mỹ chỉ đứng bên lề và cho tới nay vẫn chưa có ý định nắm vai trò lãnh đạo. Thậm chí tồi tệ hơn, sự bài ngoại, chủ nghĩa cô lập và mất niềm tin đang định hình hầu hết các tổ chức đa quốc gia. Nhiều người đổ lỗi, nguyên nhân của đại dịch corona lần này là do toàn cầu hoá, và rằng cách duy nhất để có thể phòng ngừa các bệnh dịch khác trong tương lai là phải đi ngược lại xu thế này: xây dựng các bức tường biên giới, hạn chế đi lại, buôn bán giữa các nước. Tuy nhiên, nếu cách ly ngắn hạn đẩy lùi bệnh dịch hiệu quả thì về lâu dài, sự cô lập sẽ dẫn tới sụp đổ kinh tế chứ không hề làm tăng khả năng miễn dịch của một quốc gia. Thang thuốc giải hữu hiệu cho bệnh dịch không phải là chia rẽ, mà là đoàn kết.
Bệnh dịch đã tước đi sinh mạng của hàng triệu người từ rất lâu, trước khi toàn cầu hoá diễn ra. Vào thế kỉ 14, đào đâu ra máy bay hay những chiếc du thuyền xa xỉ, thế nhưng “Cái chết đen”- bệnh dịch hạch, vẫn lan truyền từ Đông Á sang tới Tây Âu trong một thập kỷ hơn, làm thiệt mạng đâu đó khoảng từ 75 đến 200 triệu người - nhiều hơn ¼ tổng số dân của lục địa Á- Âu. Tại Anh quốc, 4 trên 10 người thiệt mạng khi mắc bệnh. Thành phố Florence đã tiễn 50,000 người trên tổng số dân 100,000 người.
Tháng 3 năm 1520, chỉ có duy nhất một người mang theo mầm bệnh đậu mùa - Francisco se Eguia - nhập cảnh vào Mexico. Lúc đó Trung Mỹ chưa hề có xe lửa, xe bus hay ngay cả những con lừa chở đồ. Vậy mà tới tháng 12 cùng năm, dịch bệnh đậu mùa đã tàn phá cả vùng Trung Mỹ, số người thiệt mạng được ước tính chiếm ⅓ dân số lúc đó.
Vào năm 1918, một chủng cúm cực kỳ nguy hiểm lan tới cả những khu vực hoang vắng nhất của địa cầu. Lây nhiễm cho nửa tỷ người - hơn ¼ nhân loại. Bệnh cúm này ước tính giết chết 5% dân số của Ấn Độ. 14% dân số của đảo Tahiti, 20% ở đảo Samoa. Đợt dịch bệnh này đã giết tất thảy hàng chục triệu người - có lẽ đâu đó 100 triệu - trong vỏn vẹn 1 năm. Thậm chí còn nhiều hơn số người chết trong 4 năm ròng rã của thế chiến thứ I.
Một thế kỷ đã trôi qua kể từ năm 1918, loài người trở nên yếu ớt trước các bệnh dịch hơn bao giờ hết, nguyên nhân là sự kết hợp của việc gia tăng dân số và sự phát triển của các loại phương tiện di chuyển. Những đô thị lớn như Tokyo hay Mexico city cung cấp số lượng mầm bệnh lớn hơn nhiều so với một Florence thời trung cổ, và hơn nữa, hệ thống giao thông hiện nay nhanh hơn nhiều so với năm 1918. Một loại virus có thể chu du từ Paris tới Tokyo rồi qua thẳng Mexico trong vòng chỉ 24 tiếng. Thiết nghĩ, nhân loại nên chuẩn bị tâm lý để sống trong một “địa ngục truyền nhiễm”, đón nhận những đợt dịch bệnh mỗi ngày một tệ hại hơn đợt trước.
Tuy nhiên, cả tỷ lệ mắc bệnh và ảnh hưởng của các dịch bệnh thật ra đã giảm một cách đáng kể. Mặc cho sự bùng nổ của các dịch bệnh như AIDS và Ebola, trong thế kỷ 21, số người chết vì dịch bệnh đã thấp nhất so với bất kỳ thời gian nào trước đó kể từ thời Đồ Đá. Sở dĩ có chuyện này là vì tấm khiên chắn kiên cố nhất của loài người với bệnh dịch không phải là sự cô lập, mà là thông tin. Nhân loại đã và đang thắng thế trong cuộc chiến chống dịch bởi vì trong cuộc “so găng” giữa bác sĩ và mềm bệnh, mầm bệnh phát triển dựa trên sự đột biến tự do còn các nhà khoa học dựa trên kết quả phân tích thông tin.
Khi Cái Chết Đen ập đến vào thế kỷ 14, người ta không hề biết điều gì gây ra nó và con người có thể làm gì để chữa trị nó. Cho đến kỷ nguyên hiện đại, chúng ta vẫn thường đổ lỗi cho những vị thần giận dữ, những ác quỷ tai quái hay không khí ô nhiễm, thậm chí ta còn nghi ngờ sự tồn tại của vi khuẩn và virus. Người ra tin vào những thiên thần, bà tiên nào đó, nhưng họ không thể tưởng tượng ra được rằng chỉ một giọt nước rơi xuống có thể chứa cả một hạm đội những kẻ săn người giết chóc. Vì vậy khi Cái Chết Đen hay dịch đậu mùa ghé thăm, các nhà lãnh đạo chỉ có thể nghĩ ra một phương pháp tối ưu nhất là tổ chức những buổi cầu nguyên lớn để khấn vái các vị thánh và chúa trời. Điều này không giúp được gì. Mà sự thật đắng lòng, tụ tập đông người chỉ khiến dịch bệnh lây lan nhanh chóng hơn.
Trong một thế kỷ qua, những nhà khoa học, các bác sĩ và y tá trên toàn thế giới đã thu thập thông tin và cùng nhau tìm ra nguyên nhân của dịch bệnh và cách để chống lại chúng. Thuyết tiến hoá giải thích cho câu hỏi tại sao và làm thế nào những bệnh dịch mới xuất hiện, và những dịch bệnh cũ trở nên nguy hiểm hơn. Di truyền học cho phép các nhà khoa học thấu hiểu được bản chất virus. Khi xưa, người trung cổ đã thất bại trong việc tìm ra nguyên nhân của Cái Chết Đen, thì ngày nay, các nhà khoa học chỉ tốn 2 tuần để định dạng loại virus corona mới, giải mã bộ gen của nó và phát triển một bộ xét nghiệm để phát hiện người bị nhiễm.
Một khi các nhà khoa học hiểu được nguyên nhân của dịch bệnh, sẽ dễ dàng hơn để chống lại nó. Các loại vắc xin, thuốc kháng sinh, cơ sở vật chất y tế và vệ sinh phát triển hơn đã cho phép loài người chiếm thế thượng phong so với những kẻ ăn thịt người vô hình. Vào năm 1967, đậu mùa lây nhiễm trên 15 triệu người và giết chết 2 triệu người. Nhưng trong thập kỷ sau đó, chiến dịch tiêm vắc xin chống thuỷ đậu toàn cầu đã thành công rực rỡ đến nỗi tổ chức Y Tế Thế Giới đã tuyên bố bằng con người đã thắng và bệnh đậu mùa đã hoàn toàn bị tiêu diệt năm 1979. Tới năm 2019, không còn một ai bị lây nhiễm hay thiệt mạng vì đậu mùa nữa.
Lịch sử đã dạy cho ta bài học gì?
Đầu tiên, một hiện thực là ta không thể bảo vệ bản thân mãi mãi bằng cách đóng cửa biên giới. Hãy nhớ rằng bệnh dịch vẫn lan truyền mạnh mẽ ngay cả ở thời kỳ Trung Cổ, rất lâu trước toàn cầu hoá. Vì vậy nếu con người hạn chế kết nối toàn cầu tới mức độ như Anh đã làm vào năm 1348 - thì chưa đủ. Kể cả quay ngược lại thời Trung Cổ vẫn chưa đủ mà loài người phải xuyên không hẳn về thời Đồ Đá. Chúng ta liệu có làm được không?
Điều thứ hai, lịch sử chỉ ra rằng cách bảo vệ tốt nhất đến từ việc chia sẻ những nguồn thông tin khoa học đáng tin cậy, với tinh thần đoàn kết ở mức độ toàn cầu. Khi một quốc gia bị tấn công bởi dịch bệnh, quốc gia đó cần ngưng lo lắng về những thảm họa kinh tế có thể xảy ra và công khai minh bạch các thông tin về bệnh dịch. Các quốc gia khác, ngược lại, cần một niềm tin vào những chia sẻ đó, và sẵn sàng đưa tay ra giúp đỡ thay vì những hành vi tẩy chay. Ngày nay, Trung Quốc có thể mang lại cho chúng ta nhiều bài học quan trọng về corona, nhưng để làm được điều đó cần một niềm tin mạnh mẽ và và hợp tác quốc tế cao độ giữa các quốc gia.
Các biện pháp cách ly hiệu quả rất cần sự hợp tác quốc tế. Cách ly và phong toả là những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn bệnh dịch. Nhưng khi các quốc gia không tin nhau và mỗi quốc gia cảm thấy mình bị cô lập, các lãnh đạo sẽ chần chừ khi ban hành những biện pháp quyết liệt. Nếu phát hiện ra 100 ca nhiễm virus corona trong một quốc gia, ta có nên đóng cửa tất cả các thành phố và các vùng hay không? Nhìn bức tranh bao quát hơn, việc này còn phụ thuộc vào việc ta trông chờ gì vào các nước khác. Việc đóng cửa các thành phố của một quốc gia có thể dẫn đến sụp đổ kinh tế. Nếu ta tin rằng các nước khác sẽ sẵn sàng giúp đỡ thì việc thực thi chính sách đóng cửa sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nếu ta nghĩ mình bị cô lập bởi những nước khác, ta sẽ có xu hướng chần chừ, và cuối cùng mọi thứ trở nên muộn màng.
Có lẽ điều quan trọng nhất mà con người nên nhận ra về bệnh dịch là sự lây lan virus ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ đe dọa đến toàn nhân loại. Lí do là virus sẽ tiến hoá. Những virus như virus corona có nguồn gốc từ các loài động vật, như dơi chẳng hạn. Khi virus lây sang con người, ban đầu chúng không thích nghi được với vật chủ là con người, nhưng trong quá trình nhân rộng của virus giữa người với người, các chủng virus đôi khi sẽ bị đột biến, hầu hết những đột biến này vô hại. Nhưng thi thoảng, sự đột biến lại khiến virus trở nên mạnh mẽ hơn và có thể chống lại hệ miễn dịch của con người - chính chủng virus đột biến này sẽ nhanh chóng lây lan ở con người. Vì một người đơn lẻ có thể mang trên mình hàng ngàn tỉ virus đang trải qua quá trình tự sao chép, mỗi người bị nhiễm bệnh cho virus hàng tỷ cơ hội mới để đột biến sao cho chúng trở nên thích hợp với vật chủ mới. Mỗi một cơ thể bệnh nhân lúc này như một chiếc máy bán vé số tự động, phân phát cho virus hàng ngàn tỷ tấm vé số, chỉ cần một tấm trúng thưởng, virus sẽ trở nên bất bại.
Điều này hoàn toàn không phải là dự đoán vô căn cứ. Trong cuốn Crisis in the Red Zone của tác giả Richard Preston đã mô tả chính xác những sự kiện y hệt diễn ra trong dịch bệnh Ebola năm 2014. Dịch bệnh khởi phát khi một số virus Ebola được truyền từ loài dơi sang người. Những con virus này mang đến bệnh tật cho con người, nhưng chúng vẫn quen sống trong cơ thể của loài dơi hơn là con người. Điều khiến Ebola biến đổi từ một căn bệnh khá hiếm trở thành một đại dịch hoành hành là sự đột biến của một gen duy nhất trong chủng virus Ebola. Chủng này đã lây nhiễm từ một bệnh nhân nào đó ở vùng Makona Tây Phi. Ebola đã đột biến thành một chủng mới - hay còn gọi là chủng Makona - liên kết với các chất vận chuyển cholesterol trong tế bào của con người. Lúc này, thay vì vận chuyển cholesterol, các chất vận chuyển dẫn đường cho Ebola vào các tế bào. Chủng virus Makona này có độ lây nhiễm cao hơn 4 lần đối với con người so với Ebola.
Khi bạn đang ngồi đọc bài báo này, có lẽ một sự đột biến tương tự đã diễn ra ở một gen của virus corona từ một bệnh nhân nào đó ở Tehran, Milan hay Vũ Hán. Nếu điều này thật sự xảy ra, nó sẽ không còn là mối nguy của người Iran, người Ý hay người Trung Quốc, mà là với chính cuộc sống của bạn. Điều này có nghĩa là, ta cần bảo vệ từng mạng sống bất kể họ đến từ đâu, vì câu chuyện “sống - chết” là câu chuyện không của riêng ai.
Những năm 1970, nhân loại chiến thắng dịch bệnh đậu mùa vì tất cả chúng ta đều đc tiêm vắc xin. Nếu có một quốc gia nào đó thất bại trong việc tuyên truyền tiêm vắc xin, chắc có lẽ mọi thứ đã thành hoang phế. Vì cho tới khi virus đậu mùa vẫn còn tồn tại và tiến hoá ở một nơi nào đó, nó vẫn sẽ luôn lây lan bất cứ đâu.
Trong cuộc chiến với các chủng virus, nhân loại cần bảo vệ chặt chẽ biên giới. Nhưng không phải là biên giới giữa các quốc gia, mà là biên giới giữa loài người và thế giới của virus. Hành tinh này đầy rẫy những loại virus không đếm xuể, và các chủng virus sẽ liên tục tiến hoá vì biến đổi gen. Ranh giới chia cách chúng ta và các loại virus tồn tại trong cơ thể của mỗi một cá thể nhân loại. Nếu một loại virus nguy hiểm xâm nhập vào biên giới này ở bất kỳ đâu trên thế giới sẽ khiến cả nhân loại bị đe doạ.
Trong thế kỷ qua, loài người đã củng cố biên giới này hơn bao giờ hết. Hệ thống y tế hiện đại đã được xây dựng như những tường thành trên đường biên giới đó, và các y tá, bác sĩ và nhà khoa học là những người bảo vệ luôn tuần tra và đẩy lùi những kẻ xâm nhập. Tuy nhiên, vẫn có những khu vực biên giới bị lãng quên một cách đau xót, để lại những lỗ hổng lớn. Có hàng triệu trăm triệu người trên thế giới không được hưởng sự chăm sóc sức khoẻ cơ bản nhất. Điều này gây nguy hiểm đến tất cả chúng ta. Chúng ta luôn nghĩ về sức khỏe như là một thuật ngữ mang tính quốc gia, nhưng việc cung cấp dịch vụ y tế tốt hơn cho người Iran và Trung Quốc cũng giúp người Israel và người Mỹ thoát khỏi dịch bệnh. Sự thật này đáng lẽ rất hiển nhiên với tất cả chúng ta, nhưng không may nó dường như xa lạ với một số cá nhân có tầm quan trọng nhất trên thế giới.
Nhân loại hôm nay đối mặt với khủng hoảng cấp tính không chỉ bởi virus corona, mà còn bởi sự thiếu niềm tin lẫn nhau. Để đẩy lùi một dịch bệnh, cần tin tưởng vào các nhà khoa học, chuyên gia, người dân cần tin vào các cơ quan công quyền, và quốc gia cần tin tưởng lẫn nhau. Trong vài năm qua, những chính trị gia vô trách nhiệm đã cố tình đánh đổ niềm tin vào khoa học, vào các chính sách công và sự hợp tác đa quốc gia. Kết quả là, chúng ta đang phải đối mặt với khủng hoảng mà không có sự hiện diện của những nhà lãnh đạo toàn cầu, những người có thể khơi dậy, hoạch định và đầu tư cho phản ứng phối hợp mang tính quốc tế.
Trong giai đoạn dịch bệnh Ebola vào năm 2014, nước Mỹ đã đóng vai trò như một người lãnh đạo đúng nghĩa. Mỹ cũng thể hiện tương tự trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 khi tập hợp các quốc gia lại để ngăn ngừa khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng những năm gần đây, Mỹ đã từ bỏ vai trò của một lãnh đạo toàn cầu. Chính quyền Mỹ cắt giảm viện trợ cho các tổ chức đa quốc gia như Tổ chức Y tế Thế giới, và làm rõ với toàn thế giới rằng, Mỹ không muốn kết bạn thực sự với bất kỳ ai, tất cả đều dựa trên lợi ích. Khi dịch bệnh virus corona xảy ra, Mỹ chỉ đứng bên lề và cho tới nay vẫn chưa có ý định nắm vai trò lãnh đạo. Mà kể cả cuối cùng phải miễn cưỡng nắm vai trò lãnh đạo đi chăng nữa, niềm tin vào chính quyền Mỹ đã bị xói mòn đến mức, chỉ còn một vài quốc gia sẵn sàng đi theo họ. Liệu bạn có đi theo một người lãnh đạo luôn chỉ biết đặt lợi ích của bản thân lên trên tất cả hay không?
Khoảng trống do Mỹ để lại vẫn chưa được lấp đầy. Thậm chí tồi tệ hơn, sự bài ngoại, chủ nghĩa cô lập và mất niềm tin đang định hình hầu hết các tổ chức đa quốc gia. Sự vắng mặt của niềm tin và gắn kết toàn cầu sẽ khiến dịch bệnh tiếp tục lây lan, và nguy cơ xảy ra các đại dịch trong tương lai. Nhưng, mỗi mối nguy đều tồn tại cơ hội. Dịch bệnh lần này hi vọng sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhân loại về sự nguy hiểm của chia rẽ toàn cầu.
Lấy ví dụ điển hình, dịch bệnh có thể là cơ hội vàng để E.U. lấy lại sự ủng hộ đồng thuận mà họ đã mất đi trong vài năm nay. Nếu những quốc gia ngoài vùng dịch hoặc chưa bị ảnh hưởng nghiêm trọng sẵn sàng tài trợ tiền bạc, thiết bị và nhân viên y tế để giúp đỡ cho những quốc gia liên minh của mình, sẽ chứng minh cho giá trị lý tưởng của liên minh Châu Âu hơn bất kì bài phát biểu nào. Nếu ngược lại, các quốc gia bị cô lập để tự cứu lấy mình, dịch bệnh có thể sẽ đặt dấu chấm hết cho một liên minh huy hoàng.
Trong thời khắc khủng hoảng, cuộc đấu tranh căng thẳng nhất diễn ra ngay trong lòng nhân loại. Nếu kết quả của dịch bệnh là sự mất niềm tin và tan rã ngày càng sâu sắc của loài người, đó sẽ là chiến thắng vinh quang nhất của những con virus.
Khi con người đang bận tranh cãi, bọn virus đã kịp nhân đôi. Trái lại, nếu chúng ta thiết lập hợp tác quốc tế chặt chẽ hơn, đó không chỉ là chiến thắng của loài người đối với virus corona, mà còn là với tất cả các dịch bệnh trong tương lai.
Nhã Nhi
Nguồn:
In the Battle Against Coronavirus, Humanity Lacks Leadership
https://www.artthyneighbour.com/arti...ay-they-should
Đầu tiên, một hiện thực là ta không thể bảo vệ bản thân mãi mãi bằng cách đóng cửa biên giới. Hãy nhớ rằng bệnh dịch vẫn lan truyền mạnh mẽ ngay cả ở thời kỳ Trung Cổ, rất lâu trước toàn cầu hoá. Vì vậy nếu con người hạn chế kết nối toàn cầu tới mức độ như Anh đã làm vào năm 1348 - thì chưa đủ. Kể cả quay ngược lại thời Trung Cổ vẫn chưa đủ mà loài người phải xuyên không hẳn về thời Đồ Đá. Chúng ta liệu có làm được không?
Điều thứ hai, lịch sử chỉ ra rằng cách bảo vệ tốt nhất đến từ việc chia sẻ những nguồn thông tin khoa học đáng tin cậy, với tinh thần đoàn kết ở mức độ toàn cầu. Khi một quốc gia bị tấn công bởi dịch bệnh, quốc gia đó cần ngưng lo lắng về những thảm họa kinh tế có thể xảy ra và công khai minh bạch các thông tin về bệnh dịch. Các quốc gia khác, ngược lại, cần một niềm tin vào những chia sẻ đó, và sẵn sàng đưa tay ra giúp đỡ thay vì những hành vi tẩy chay. Ngày nay, Trung Quốc có thể mang lại cho chúng ta nhiều bài học quan trọng về corona, nhưng để làm được điều đó cần một niềm tin mạnh mẽ và và hợp tác quốc tế cao độ giữa các quốc gia.
Các biện pháp cách ly hiệu quả rất cần sự hợp tác quốc tế. Cách ly và phong toả là những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn bệnh dịch. Nhưng khi các quốc gia không tin nhau và mỗi quốc gia cảm thấy mình bị cô lập, các lãnh đạo sẽ chần chừ khi ban hành những biện pháp quyết liệt. Nếu phát hiện ra 100 ca nhiễm virus corona trong một quốc gia, ta có nên đóng cửa tất cả các thành phố và các vùng hay không? Nhìn bức tranh bao quát hơn, việc này còn phụ thuộc vào việc ta trông chờ gì vào các nước khác. Việc đóng cửa các thành phố của một quốc gia có thể dẫn đến sụp đổ kinh tế. Nếu ta tin rằng các nước khác sẽ sẵn sàng giúp đỡ thì việc thực thi chính sách đóng cửa sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nếu ta nghĩ mình bị cô lập bởi những nước khác, ta sẽ có xu hướng chần chừ, và cuối cùng mọi thứ trở nên muộn màng.
Có lẽ điều quan trọng nhất mà con người nên nhận ra về bệnh dịch là sự lây lan virus ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ đe dọa đến toàn nhân loại. Lí do là virus sẽ tiến hoá. Những virus như virus corona có nguồn gốc từ các loài động vật, như dơi chẳng hạn. Khi virus lây sang con người, ban đầu chúng không thích nghi được với vật chủ là con người, nhưng trong quá trình nhân rộng của virus giữa người với người, các chủng virus đôi khi sẽ bị đột biến, hầu hết những đột biến này vô hại. Nhưng thi thoảng, sự đột biến lại khiến virus trở nên mạnh mẽ hơn và có thể chống lại hệ miễn dịch của con người - chính chủng virus đột biến này sẽ nhanh chóng lây lan ở con người. Vì một người đơn lẻ có thể mang trên mình hàng ngàn tỉ virus đang trải qua quá trình tự sao chép, mỗi người bị nhiễm bệnh cho virus hàng tỷ cơ hội mới để đột biến sao cho chúng trở nên thích hợp với vật chủ mới. Mỗi một cơ thể bệnh nhân lúc này như một chiếc máy bán vé số tự động, phân phát cho virus hàng ngàn tỷ tấm vé số, chỉ cần một tấm trúng thưởng, virus sẽ trở nên bất bại.
Điều này hoàn toàn không phải là dự đoán vô căn cứ. Trong cuốn Crisis in the Red Zone của tác giả Richard Preston đã mô tả chính xác những sự kiện y hệt diễn ra trong dịch bệnh Ebola năm 2014. Dịch bệnh khởi phát khi một số virus Ebola được truyền từ loài dơi sang người. Những con virus này mang đến bệnh tật cho con người, nhưng chúng vẫn quen sống trong cơ thể của loài dơi hơn là con người. Điều khiến Ebola biến đổi từ một căn bệnh khá hiếm trở thành một đại dịch hoành hành là sự đột biến của một gen duy nhất trong chủng virus Ebola. Chủng này đã lây nhiễm từ một bệnh nhân nào đó ở vùng Makona Tây Phi. Ebola đã đột biến thành một chủng mới - hay còn gọi là chủng Makona - liên kết với các chất vận chuyển cholesterol trong tế bào của con người. Lúc này, thay vì vận chuyển cholesterol, các chất vận chuyển dẫn đường cho Ebola vào các tế bào. Chủng virus Makona này có độ lây nhiễm cao hơn 4 lần đối với con người so với Ebola.
Khi bạn đang ngồi đọc bài báo này, có lẽ một sự đột biến tương tự đã diễn ra ở một gen của virus corona từ một bệnh nhân nào đó ở Tehran, Milan hay Vũ Hán. Nếu điều này thật sự xảy ra, nó sẽ không còn là mối nguy của người Iran, người Ý hay người Trung Quốc, mà là với chính cuộc sống của bạn. Điều này có nghĩa là, ta cần bảo vệ từng mạng sống bất kể họ đến từ đâu, vì câu chuyện “sống - chết” là câu chuyện không của riêng ai.
Những năm 1970, nhân loại chiến thắng dịch bệnh đậu mùa vì tất cả chúng ta đều đc tiêm vắc xin. Nếu có một quốc gia nào đó thất bại trong việc tuyên truyền tiêm vắc xin, chắc có lẽ mọi thứ đã thành hoang phế. Vì cho tới khi virus đậu mùa vẫn còn tồn tại và tiến hoá ở một nơi nào đó, nó vẫn sẽ luôn lây lan bất cứ đâu.
Trong cuộc chiến với các chủng virus, nhân loại cần bảo vệ chặt chẽ biên giới. Nhưng không phải là biên giới giữa các quốc gia, mà là biên giới giữa loài người và thế giới của virus. Hành tinh này đầy rẫy những loại virus không đếm xuể, và các chủng virus sẽ liên tục tiến hoá vì biến đổi gen. Ranh giới chia cách chúng ta và các loại virus tồn tại trong cơ thể của mỗi một cá thể nhân loại. Nếu một loại virus nguy hiểm xâm nhập vào biên giới này ở bất kỳ đâu trên thế giới sẽ khiến cả nhân loại bị đe doạ.
Trong thế kỷ qua, loài người đã củng cố biên giới này hơn bao giờ hết. Hệ thống y tế hiện đại đã được xây dựng như những tường thành trên đường biên giới đó, và các y tá, bác sĩ và nhà khoa học là những người bảo vệ luôn tuần tra và đẩy lùi những kẻ xâm nhập. Tuy nhiên, vẫn có những khu vực biên giới bị lãng quên một cách đau xót, để lại những lỗ hổng lớn. Có hàng triệu trăm triệu người trên thế giới không được hưởng sự chăm sóc sức khoẻ cơ bản nhất. Điều này gây nguy hiểm đến tất cả chúng ta. Chúng ta luôn nghĩ về sức khỏe như là một thuật ngữ mang tính quốc gia, nhưng việc cung cấp dịch vụ y tế tốt hơn cho người Iran và Trung Quốc cũng giúp người Israel và người Mỹ thoát khỏi dịch bệnh. Sự thật này đáng lẽ rất hiển nhiên với tất cả chúng ta, nhưng không may nó dường như xa lạ với một số cá nhân có tầm quan trọng nhất trên thế giới.
Nhân loại hôm nay đối mặt với khủng hoảng cấp tính không chỉ bởi virus corona, mà còn bởi sự thiếu niềm tin lẫn nhau. Để đẩy lùi một dịch bệnh, cần tin tưởng vào các nhà khoa học, chuyên gia, người dân cần tin vào các cơ quan công quyền, và quốc gia cần tin tưởng lẫn nhau. Trong vài năm qua, những chính trị gia vô trách nhiệm đã cố tình đánh đổ niềm tin vào khoa học, vào các chính sách công và sự hợp tác đa quốc gia. Kết quả là, chúng ta đang phải đối mặt với khủng hoảng mà không có sự hiện diện của những nhà lãnh đạo toàn cầu, những người có thể khơi dậy, hoạch định và đầu tư cho phản ứng phối hợp mang tính quốc tế.
Trong giai đoạn dịch bệnh Ebola vào năm 2014, nước Mỹ đã đóng vai trò như một người lãnh đạo đúng nghĩa. Mỹ cũng thể hiện tương tự trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 khi tập hợp các quốc gia lại để ngăn ngừa khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng những năm gần đây, Mỹ đã từ bỏ vai trò của một lãnh đạo toàn cầu. Chính quyền Mỹ cắt giảm viện trợ cho các tổ chức đa quốc gia như Tổ chức Y tế Thế giới, và làm rõ với toàn thế giới rằng, Mỹ không muốn kết bạn thực sự với bất kỳ ai, tất cả đều dựa trên lợi ích. Khi dịch bệnh virus corona xảy ra, Mỹ chỉ đứng bên lề và cho tới nay vẫn chưa có ý định nắm vai trò lãnh đạo. Mà kể cả cuối cùng phải miễn cưỡng nắm vai trò lãnh đạo đi chăng nữa, niềm tin vào chính quyền Mỹ đã bị xói mòn đến mức, chỉ còn một vài quốc gia sẵn sàng đi theo họ. Liệu bạn có đi theo một người lãnh đạo luôn chỉ biết đặt lợi ích của bản thân lên trên tất cả hay không?
Khoảng trống do Mỹ để lại vẫn chưa được lấp đầy. Thậm chí tồi tệ hơn, sự bài ngoại, chủ nghĩa cô lập và mất niềm tin đang định hình hầu hết các tổ chức đa quốc gia. Sự vắng mặt của niềm tin và gắn kết toàn cầu sẽ khiến dịch bệnh tiếp tục lây lan, và nguy cơ xảy ra các đại dịch trong tương lai. Nhưng, mỗi mối nguy đều tồn tại cơ hội. Dịch bệnh lần này hi vọng sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhân loại về sự nguy hiểm của chia rẽ toàn cầu.
Lấy ví dụ điển hình, dịch bệnh có thể là cơ hội vàng để E.U. lấy lại sự ủng hộ đồng thuận mà họ đã mất đi trong vài năm nay. Nếu những quốc gia ngoài vùng dịch hoặc chưa bị ảnh hưởng nghiêm trọng sẵn sàng tài trợ tiền bạc, thiết bị và nhân viên y tế để giúp đỡ cho những quốc gia liên minh của mình, sẽ chứng minh cho giá trị lý tưởng của liên minh Châu Âu hơn bất kì bài phát biểu nào. Nếu ngược lại, các quốc gia bị cô lập để tự cứu lấy mình, dịch bệnh có thể sẽ đặt dấu chấm hết cho một liên minh huy hoàng.
Trong thời khắc khủng hoảng, cuộc đấu tranh căng thẳng nhất diễn ra ngay trong lòng nhân loại. Nếu kết quả của dịch bệnh là sự mất niềm tin và tan rã ngày càng sâu sắc của loài người, đó sẽ là chiến thắng vinh quang nhất của những con virus.
Khi con người đang bận tranh cãi, bọn virus đã kịp nhân đôi. Trái lại, nếu chúng ta thiết lập hợp tác quốc tế chặt chẽ hơn, đó không chỉ là chiến thắng của loài người đối với virus corona, mà còn là với tất cả các dịch bệnh trong tương lai.
Nhã Nhi
Nguồn:
In the Battle Against Coronavirus, Humanity Lacks Leadership
https://www.artthyneighbour.com/arti...ay-they-should
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét