Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2020

Trong suy thoái, Việt Nam nên chi tiêu như thế nào

Dịch bệnh lần này tác động mạnh tới cả đường cung lẫn đường cầu chứ không chỉ là sốc cung. Khi nó làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu tại công xưởng sản xuất hàng đầu thế giới là Trung Quốc, thì đã tác động tới đường cung qua làm tăng chi phí sản xuất và giảm nguồn cung đầu vào; hơn nữa nó cũng tác động tiêu cực tới kỳ vọng khôi phục sản xuất ngắn hạn. Mặt khác, khi nó buộc người dân phải ở nhà không thể đi mua sắm, đồng thời thu nhập giảm sút thì đã tác động tới đường cầu. Do tác động kép nên sản xuất sẽ giảm mạnh. Nếu cung giảm mạnh trong khi cầu giảm nhẹ theo đánh giá của tôi thì trong thời gian tới giá cả sẽ tăng lên nhanh. Tình trạng khan hiếm hàng hóa có thể sẽ diễn ra nếu chính phủ không sớm có giải pháp an dân, nhất là đừng để bùng nổ tình trạng đầu cơ và mua hàng tích trữ trong dân.
Trong suy thoái, Việt Nam nên chi tiêu như thế nào
Bài học từ sai lầm lịch sử
Cuộc suy thoái lần này do Covid-19 lan rộng đã tạo ra cú sốc phía tổng cung, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu tại công xưởng sản xuất hàng đầu thế giới là Trung Quốc. Việt Nam lại chịu tác động tiêu cực do phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam nên đổ tiền vào đâu để “sửa chữa” thị trường?


Trong cuộc đại khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, Chính phủ Việt Nam đã tung ra gói kích thích “kích cầu” hàng tỷ đô la, nới lỏng cả tài khóa và tiền tệ, đối tượng thụ hưởng gần như không giới hạn. (Ảnh: Flickr)



Cuộc đại khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 xuất phát từ Mỹ đã ngay lập tức tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam vốn đã hội nhập khá sâu rộng tại thời điểm đó. Khi đó, dòng tiền tháo chạy khỏi thị trường tài chính và đầu tư vào các tài sản an toàn như vàng khiến hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) kẹt thanh khoản. Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao bất thường 30-50% trong nhiều năm trước khủng hoảng đã tạo bong bóng bất động sản (BĐS), chứng khoán. Do vậy, khi thị trường hoảng loạn, giá tài sản lao dốc, nợ xấu tích tụ ở NHTM khiến lãi suất tăng cao, doanh nghiệp không tiếp cận được vốn, sản xuất nhiều khu vực rơi vào tê liệt.

Vào thời điểm đó Chính phủ Việt Nam đã tung ra gói “kích cầu” hàng tỷ đô-la, nới lỏng cả tài khóa và tiền tệ, đối tượng thụ hưởng gần như không giới hạn. Gói kích cầu thứ nhất trị giá 17.000 tỷ đồng, hỗ trợ 4% lãi suất vay ngân hàng thương mại cho các khoản vay ngắn hạn dưới 1 năm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng không quá 300 công nhân, không nợ đọng thuế và nợ tín dụng quá hạn…

Tiếp đó, gói kích cầu thứ hai cũng đã được công bố với quy mô lớn hơn, thời hạn cho vay dài hơn (tới 2 năm), điều kiện nới lỏng hơn (doanh nghiệp và cả hợp tác xã có vốn dưới 20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500 lao động, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp vẫn được xét cho vay) và lĩnh vực cho vay cũng mở rộng hơn…

Không thể phủ nhận gói kích cầu lớn đã khởi tác dụng nhất định và mong muốn tích cực của chính phủ về một nền kinh tế tăng trưởng bền vững hơn dựa trên phục hồi lành mạnh của doanh nghiệp - tế bào của nền kinh tế - cũng được hiện thực hóa phần nào.

Tuy nhiên, sau 10 năm nhìn lại, các chuyên gia, ở nhiều góc độ, đã chứng minh gói kích cầu không mang lại hiệu quả chính sách như mong đợi, nói cách khác có tồn tại lãng phí ngân sách thông qua các số liệu thống kê chính thống và cách tiếp cận khoa học.
Một bài nghiên cứu được đăng bởi Thời báo Kinh tế Sài Gòn vào tháng 1/2010 (7-8 tháng sau khi triển khai chính sách), dựa vào số liệu và hệ số co giãn của cung - cầu quỹ cho vay, đã đi đến kết luận: 

(i) doanh nghiệp không được hưởng mức 4% lãi suất ưu đãi, phần ưu đãi này ngân hàng sẽ nhận nhiều hơn và một phần ưu đãi này không vào doanh nghiệp cũng như không vào ngân hàng, mà biến mất vào một nhóm khác (nghiên cứu không chỉ ra cụ thể); 

(ii) hỗ trợ sai đối tượng. Bản thân ngân hàng nhà nước (NHNN) sau đó cũng có báo cáo về hàng nghìn tỷ đồng giải ngân sai đối tượng hưởng ưu đãi trong gói chính sách này; 

(iii) Sử dụng vốn sai mục đích. Việc này dẫn tới dòng tiền ưu đãi không chảy vào sản xuất thực, mà biến tướng và chảy vào thị trường bất động sản, vốn đã tạo bong bóng do chính sách tăng trưởng tín dụng nóng trước đó cả thập kỷ.Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng dư nợ BĐS và thị trường BĐS (Nguồn: Hoàng & Nguyễn, Tác động của CSTT tới thị trường BĐS, NEU, 2017)

Một nghiên cứu độc lập khác về mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và biến động thị trường BĐS của Hoàng và Nguyễn (2017) đã chỉ ra tăng trưởng tín dụng tăng vọt trong năm 2009 do chính sách kích cầu tín dụng, tăng trưởng tín dụng BĐS (số báo cáo) bị siết chặt do chính sách, nhưng vẫn làm cho thị trường BĐS tăng trưởng nóng trong 2 năm 2009-2010. Nghiên cứu chỉ ra một phần của dòng tiền kích cầu đã không đạt mục tiêu của chính phủ, chảy vào thị trường bất động sản làm thổi phồng giá của thị trường này, tăng đầu cơ, tăng rủi ro cho hệ thống NHTM nhiều năm sau đó và cũng góp phần làm giảm tính hữu hiệu của chính sách. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với báo cáo của NHNN cuối năm 2009 về việc hàng ngàn tỷ hỗ trợ tín dụng doanh nghiệp đã bị giải ngân sai mục đích.

Bài học năm 2009 vẫn còn mới. Không có gì tệ hơn việc lợi dụng nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ để đầu cơ trục lợi trong điều kiện nền kinh tế còn muôn vàn những khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên, không thể trách cứ và kêu gọi nhà đầu tư hãy sống bằng lương tâm được, bởi hành vi của họ là duy lý. Thay vào đó, chính phủ phải kết hợp hài hòa giữa những biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính để điều chỉnh những hành vi của nhà đầu tư, sửa chữa những thất bại của thị trường.

Sau hơn 10 năm, một lần nữa, Việt Nam đứng trước nguy cơ suy thoái, thậm chí là khủng hoảng kinh tế đến từ Trung Quốc bởi dịch Covid-19. Những khó khăn của doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong nền kinh tế thực đã và đang làm đình đốn nền kinh tế. Hơn bao giờ hết, chính phủ không chỉ cần tăng cường chi tiêu mà còn phải chi tiêu đúng mục tiêu một cách liêm chính, công khai và minh bạch.

Cần đúng mục tiêu và tiết kiệm
Việc hỗ trợ tràn lan, không đúng mục tiêu và lãng phí đã để lại các hậu quả kinh tế xấu trong quá khứ và đây luôn là điểm yếu trong hoạch định và thực thi chính sách công tại Việt Nam. Suy thoái một lần nữa gõ cửa, doanh nghiệp đang chờ đợi các tuyên bố chính sách cụ thể hơn, đúng mục tiêu và hiệu quả hơn...

Trong phần 1, NTDVN đã phân tích về các “sai lầm trong quá khứ” khi chính phủ thực thi hai gói chính sách hàng chục tỷ đô la để hỗ trợ doanh nghiệp và chặn đà khủng hoảng kinh tế năm 2009. Các nghiên cứu của chuyên gia kinh tế sau đó đã chỉ ra việc thực thi chính sách tràn lan, không giám sát và kiểm soát tốt khiến một phần dòng tiền hỗ trợ “chảy” lệch mục tiêu đã tạo ra các méo mó kinh tế, thổi phồng thêm bong bóng giá bất động sản và để lại những hậu quả kinh tế trong nhiều năm sau.

Thực tế, một trong những “điểm yếu” nhất trong việc thực thi chính sách công của Việt Nam là thiếu vắng giám sát hiệu quả từ cơ quan chức năng và đặc biệt là thiếu trách nhiệm giải trình của những người tham gia thực hiện, triển khai chính sách. Ví dụ, cho tới nay chưa một quan chức cấp tỉnh, huyện nào chịu chế tài do chậm giải ngân vốn đầu tư công, lãng phí vốn đầu tư công hay chậm báo cáo số liệu quyết toán đầu tư công. 

Ngoài ra, chi tiêu công “không đúng mục tiêu” và “thiếu hiệu quả” luôn là kết luận không thể thiếu trong các báo cáo kiểm toán, nghiên cứu về chi tiêu công trong nhiều năm qua tại Việt Nam, ví dụ như nghiên cứu của VERP về báo cáo chi tiêu thuế cho thấy các ưu đãi thuế làm hụt thu 20% ngân sách trong khi tạo ra môi trường kinh doanh mất công bằng.

Bởi vậy, trong bối cảnh khó khăn như hiện nay khi cú sốc tổng cầu, tổng cung trên toàn thế giới đang tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế trong nước, doanh nghiệp phải co hẹp hoặc tạm dừng sản xuất, kinh doanh thì việc chi tiêu công liêm chính và đúng mục tiêu cần phải là ưu tiên hàng đầu.

Doug Holtz-Eakin, chủ tịch của Diễn đàn hành động bảo thủ của Mỹ và là cựu cố vấn kinh tế hàng đầu của George W. Bush và John McCain, chia sẻ quan điểm rằng trong dịch bệnh như hiện nay, các gói kích thích tài khóa không phải là chìa khóa đảm bảo cho nền kinh tế, mà thay vào đó, các chính sách, chi tiêu của chính phủ để trực tiếp chống lại dịch bệnh đóng vai trò quan trọng và hiệu quả hơn. 

Cho tới nay, các tuyên bố chính sách của Việt Nam khá tốt: 250 nghìn tỷ hỗ trợ tín dụng và 30 nghìn tỷ hỗ trợ thuế, phí doanh nghiệp


Chính phủ đã tuyên bố nhiều giải pháp như: Tăng chi ngân sách để phòng, chống dịch Covid-19. Trong 2 tháng đầu năm, riêng ngân sách trung ương đã trích 517,7 tỷ đồng dự phòng năm 2020 để triển khai các hoạt động phòng chống dịch. Bộ Tài chính cũng đã xuất cấp 12,76 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để khắc phục hậu quả thiên tai, cứu trợ, cứu đói cho nhân dân trong dịp giáp hạt đầu năm 2020. Bộ Tài chính cũng ban hành Quyết định 155/QĐ-BTC liệt kê danh mục các mặt hàng được miễn thuế nhập khẩu phục vụ phòng, chống dịch Covid-19, gồm khẩu trang y tế; nước rửa tay sát trùng (chế phẩm sát trùng tay dạng gel hoặc dạng lỏng)…

Ngoài ra, Bộ tài chính đã dự thảo Nghị định 11 trong đó gia hạn nhiều loại thuế như cho chậm nộp trong 5 tháng với tổng số tiền thuế được giãn nộp đối với nhóm đối tượng chịu tác động bất lợi của dịch bệnh, ước tính khoảng 30.000 tỷ đồng. Cụ thể: (i) Gia hạn 05 tháng nộp thuế GTGT từ tháng 3 cho đến tháng 6, quý I, II/2020 cho các doanh nghiệp, tổ chức. (ii) Đối với cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình kinh doanh, gia hạn đối với số tiền thuế phát sinh phải nộp của năm 2020 đến trước ngày 15/12/2020; (iii) Gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất 05 tháng kể từ ngày phải nộp tiền thuê đất của Kỳ 1 (nộp trước 31/5).

Phía Ngân hàng Nhà nước cho biết đã có dự thảo Thông tư về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Giữa doanh nghiệp và ngân hàng thương mại (NHTM) là quan hệ kinh tế thị trường, liệu có méo mó bởi các mệnh lệnh hành chính?


Các tuyên bố chính sách - cho đến thời điểm này - trong hỗ trợ doanh nghiệp thực chất là giãn nợ cho doanh nghiệp, hoãn lại các nghĩa vụ trả nợ về thuế, phí và nợ ngân hàng cho doanh nghiệp cho tới khi dịch qua đi và doanh nghiệp có thu nhập để trả nợ NHTM và cơ quan thuế. Việc không chi tiền mặt ồ ạt qua ưu đãi lãi suất 4% như năm 2009 cũng giảm rủi ro chệch mục tiêu khiến dòng tiền (vốn khan hiếm) lại chảy vào thị trường bất động sản (BĐS) đang khát vốn.

Tuy nhiên, mặt trái của chính sách này không nằm ở tài khóa mà nằm ở chính sách tiền tệ. 

Việc thực thi chính sách tài khóa dễ dàng hơn nhiều bởi quan hệ giữa doanh nghiệp - cơ quan thuế không phải là quan hệ kinh tế thị trường, là quan hệ giữa doanh nghiệp - nhà nước. Nhưng mối quan hệ giữa doanh nghiệp - NHTM thì khác, đó là mối quan hệ kinh tế thị trường. Các NHTM dường như không sẵn sàng trong việc giảm lãi, giãn nợ cho doanh nghiệp vì bản thân NHTM cũng hạn chế về thông tin và lo ngại hỗ trợ chệch mục tiêu làm giảm hiệu quả hoạt động của họ về lâu dài. Không phải NHTM nào cũng có khả năng hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt trong hệ thống các NHTM hiện nay có nhiều NHTM còn yếu kém. Nhưng quan trọng hơn, NHTM hoạt động vì các mục tiêu lợi nhuận của chính họ, việc phải tuân thủ các mệnh lệnh hành chính có thể dẫn tới các “hỗ trợ” mang tính hình thức chứ không hề thực chất cho doanh nghiệp.

Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại với phóng viên của NTDVN ngày 20/3 vừa qua, một doanh nghiệp quy mô vừa (doanh thu 250 tỷ đồng/năm) về sản xuất phụ kiện viễn thông đã chia sẻ rằng NHTM của họ yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp bằng chứng về việc hoạt động kinh doanh của công ty chịu tác động tiêu cực bởi dịch Covid-19 nếu muốn được giảm lãi. Kế toán trưởng của doanh nghiệp chia sẻ: “Chúng tôi không thể chuẩn bị ngay bằng chứng về doanh thu, hợp đồng bị hủy, bị thu hẹp do đại dịch ngay lúc này. Cho tới nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn dựa vào các hợp đồng đã ký cuối năm trước. Nhưng đơn hàng yêu cầu sản xuất của các hợp đồng đã ký đó thì đối tác không gửi yêu cầu sản xuất, bản thân họ không thể yêu cầu sản xuất và để hàng tồn kho để tăng thêm chi phí do cầu giảm. Như vậy số liệu chứng minh công ty khó khăn để được hưởng ưu đãi, ví dụ như số liệu về tài chính, phải sau quý 1, thậm chí quý 2 năm nay, lúc này ưu đãi lãi suất đã không còn bao nhiêu ý nghĩa”.

Khó khăn của doanh nghiệp đo đại dịch virus Corona Vũ Hán là không cần phải chứng minh. Các nhà hoạch định chính sách, chứ không phải doanh nghiệp, cần phân loại ngành, khu vực khó khăn do dịch bệnh theo thứ tự ưu tiên và có phản ứng chính sách thiết thực, cụ thể hơn. Các tuyên bố chính sách tốt là không đủ, quan trọng hơn là triển khai chính sách đúng mục tiêu và đảm bảo tính liêm chính của thị trường.
Cam kết dập dịch bằng khoản tiền dự trữ lớn là cần thiết nhất nhưng cũng phải đúng mục tiêu và tiết kiệm

Trong khủng hoảng do dịch bệnh, niềm tin giữa dân chúng và chính phủ là yếu tố quyết định sự thành công của việc khoanh vùng dịch và dập dịch đúng mục tiêu. 

Muốn vậy, minh bạch thông tin và cam kết mạnh mẽ của chính phủ về bảo vệ, quý trọng sinh mệnh của người dân cần phải mạnh mẽ nhất. Cho tới nay, Đài Loan, Hàn Quốc đã làm khá tốt việc này và có được sự phối hợp và ý thức hợp tác cao của dân chúng, doanh nghiệp. Trong bối cảnh này, chính phủ cần tăng dự phòng chi cho hoạt động y tế, bảo đảm vệ sinh môi trường, hoạt động hỗ trợ kiểm soát, phòng chống dịch, dập dịch Covid-19. Khoản dự phòng chi tiêu này, chính phủ có thể cam kết lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Hành động chính sách này sẽ giống như cam kết của Chính phủ với người dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, làm tăng niềm tin và sự tuân thủ dân sự trong chiến dịch.

Tuy nhiên, chi tiêu trong việc khoanh vùng và dập dịch cũng cần tiết kiệm và đúng mục tiêu. Chi phí cách ly cho mỗi cá nhân là rất lớn. Chính phủ cần thiết kế chính sách hỗ trợ chi phí cách ly theo mức độ ưu tiên khác nhau, tùy thuộc vào mức thu nhập của mỗi cá nhân và tình trạng, địa điểm cách ly.

Cũng như vậy với chi phí chữa trị bệnh nhân mắc virus Corona Vũ Hán. Việc này cần được xã hội hóa, dựa trên khả năng chi trả của cá nhân bệnh nhân và bảo hiểm y tế mà bệnh nhân đó đang tham gia.

Trà Nguyễn

Lưu ý: Bài viết này thể hiện quan điểm của người viết, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

https://www.ntdvn.com/kinh-te/trong-suy-thoai-viet-nam-nen-chi-tieu-nhu-the-nao-p1-bai-hoc-tu-sai-lam-lich-su-19892.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét