Buồn cho cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với cách làm “trên” vẫn chỉ đạo, “áp” mệnh lệnh trong sản xuất nông nghiệp và chỉ tiêu đảm bảo an ninh lương thực với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 9-10%/năm, phấn đấu đến năm 2030, nông nghiệp phải đạt kim ngạch xuất khẩu 100 tỷ USD! Chẳng ở đâu làm nông nghiệp bền vững, phát triển “thuận thiên”, hướng tới phá thế độc canh cây lúa, khuyến khích làm lúa giá trị cao, giảm 3 vụ lúa xuống để đất phục hồi... Việc TQ gom thu gạo, tôi đã nghĩ ngay từ khi dịch lan rộng ra các nước Hàn Quốc, Nhật Bản và đã từng viết trên Blog này. Rõ ràng sốc cung rất lớn (giảm cung) kèm theo sốc cầu (giảm nhẹ và tạm thời). Mất cân đối cung cầu sẽ làm cho giá cả đa số các hàng hóa thông thường, nhất là hàng thiết yếu, tăng lên. Tình trạng người dân đổ xô đi mua hàng tích trữ và giá tăng lên đã phản ánh điều đó. Dịch bệnh càng kéo dài, khan hiếm hàng hóa sẽ càng lớn. Giai đoạn đầu sau dịch bệnh sẽ nghiêm trọng hơn vì cung phục hồi chậm chạp trong khi cầu tăng nhanh. Gạo là hàng hóa thiết yếu quan trọng bậc nhất đối với phần lớn các nước. Trung Quốc có 1,45 tỷ dân, sống chủ yếu bằng gạo; an ninh lương thực đối với TQ là mệnh lệnh sống còn của chế độ, nên TQ phải thu gom gạo lúc này là rất chính xác.
Râm ran dư luận này tuần qua. Lên tiếng cảnh báo để bảo vệ an ninh lương thực Việt Nam là hợp lòng dư luận nhất. Nhưng xem xét kỹ số liệu, rồi trao đổi với các nhà xuất nhập khẩu gạo, tôi thử đặt vần đề trái chiều, mong mọi người cùng bàn...Thực lòng, lúc này, tình hình quá bất định, TQ đang mưu tính gì, rồi sau đại dịch, lại càng khó đoán, chỉ có trời biết...
1/ THỰC CHẤT CON SỐ TĂNG 600%.
Con số 600% quá ấn tượng nhưng xem kỹ số liệu XNK gần đây sẽ thấy: con số 600% không có ý nghĩa thực tế bao nhiêu. Vì sao? Vì trước đây, mỗi năm TQ nhập đến 40% tổng lượng nhập gạo Việt thì cuối năm 2019, Trung Quốc chỉ còn nhập khẩu gạo VN một tỉ lệ cực thấp: 8% tổng nhập khẩu của họ, thậm chí tháng 1/2020 tỉ lệ này còn rớt nữa, chỉ còn 5,49%. Vậy nếu họ tăng nhập 600% thì chỉ là: hơn 66.000 tấn với giá trị tương đương 37 triệu USD.
Gạo VN xuất qua TQ hầu hết là GẠO XÁ, không thương hiệu. Họ mua rồi trộn, vô bao, gắn mác TQ bán nội địa hay xuất đi đâu, ta cũng không nắm. Từ sau 2014, ta không phải là đối tác nhập gao chính của họ nữa và gần đây, họ ngầm có chủ trương “không cấp cô ta cho VN”. Chủ trương này chắc chắn có liên quan ý đồ chính trị (có thể vì cần xô VN ra, để ưu ái những nước lân cận chăng, hoặc vì VN không “ngoan” trong vụ Biển Đông mà phải “trị” cho sợ?
2/ “NGƯỜI TÌNH CŨ” GIỜ ĐÃ RẼ LỐI TRÊN THỊ TRƯỜNG?
Bản đồ đối thủ cạnh tranh xuất gạo sang TQ nổi lên 2 đối thủ bất ngờ được TQ “cưng” quá mức đế vọt lên xếp hạng 1 và 3 về tỉ lệ tăng nhập khẩu gạo là: Myanmar và Lào. Đây là 2 nước rất nhiệt tình tham gia dự án “Vành đai con đường”; Myanmar thì Tập mới đi thăm ký thỏa thuận lớn ngày 17/1 (3 ngày trước khi Tập công bố dịch toàn quốc) còn Lào thì TQ tặng đường sắt 414 km trị giá hơn 4 tỷ USD sẽ hoàn thành năm 2021. Lào với ta vốn là anh em ruột thịt, thương nhau vậy mà giờ đã thành “tình cũ” trên thị trường lúa gạo?
Năm 2018, Myanmar đứng đầu danh sách gia tăng tỉ lệ nhập khẩu gạo của TQ, tăng 886% so năm trước, với giá trị là 31,5 triệu USD, còn Lào vọt lên thứ 3, tăng 455% mà giá trị còn cao hơn Myanmar: 38 triệu USD (tổng kim ngạch xuất gạo của Lào ra thế giới năm đó chỉ là 44 triệu USD). Mấy tháng đầu năm 2020, Lào nhập gạo VN (2 nước Việt-Lào đã ký thỏa thuận thuế suất bằng 0) tăng 2.655%. Dân Lào ăn nếp và gạo xuất đi đâu thì chắc ai cũng biết. Tháng 10/2019, Lào và TQ đã đẩy mạnh hợp tác XNK, xây dựng trung tâm kiểm định nông sản và các thỏa thuận chung về tiêu chuẩn.
HIện nay TQ dự trữ lượng gạo 120 triệu tấn, là thừa so với mức trung bình dự trữ gạo của các nước trên thế giới. Nhưng họ vẫn chưa mở kho để dùng, sau cao điểm dịch, mà vẫn giữ gạo đó và tiếp tục đi mua. Có thể họ vẫn giữ chủ trương không mua nhiều của VN, mà cũng có thể họ mua nhiều. Hoặc họ “tung hỏa mùa” giương đông kích tây mua giá cao, đặt hàng nhiều, để thương lái và nông dân VN mắc bẫy, cùng nhau tăng mạnh làm lúa cho mùa tới rồi mắc cạn như những lần trước?.
3/ VN VÀ ĐBSCL KHÔNG THỂ CỨ LÀM LÚA GẠO THEO LỐI CŨ NỮA.
Thực tế, giới mua bán lúa gạo đều biết các CT XNK gạo của ta hiện cũng đang muốn bán ra vì lúa thu đông còn tồn kho, năng lực trữ yếu, bán để thu hồi vốn, đảo kho, chuẩn bị mùa mới... và sẽ xảy ra tranh bán, đạp giá nhau dù TQ mua nhiều hay không. Vậy nếu có chỉ đạo của TW về “an ninh lương thực” thì giải quyết được vấn nạn này chăng?
Điều đáng lo là đồng bằng sông Cửu Long giờ đang vướng 2 đại họa: nạn CoViD cùng cả nước và lại còn hạn, mặn thảm khốc. Đảm bảo “an ninh lương thực” thế nào đây?
Chắc chắn là sau nạn hạn, mặn năm nay, nông nghiệp ĐBSCL buộc phải có tư duy khác, cách làm khác nếu không muốn thất bại thảm bại.
Suy đi nghĩ lại về lời cảnh báo Trung Quốc thu gom gạo?
Vũ Kim Hạnh – Thái Lan có...Chợ Đào, ta không làm thì Thái SX bán gạo Nàng Hương Chợ Đào ở Mỹ thôi trong khi các bạn Việt Kiều "hóng" ST25 quá chừng. Gạo đồng bằng giờ vang danh”Ngon nhất thế giới”. Ngay thị trường nội địa hiện nay, gạo ST24, ST25 vẫn đang đánh bạt gạo Miên, gạo Thái để đứng nhất bảng, hút khách nhất, mà không có để bán. (Tôi đã suy nghĩ lại và đổi tựa bài. Mong các bạn nghĩ sâu và xa hơn về tương lai ngành lúa gạo, nông nghiệp VN).1/ THỰC CHẤT CON SỐ TĂNG 600%.
Con số 600% quá ấn tượng nhưng xem kỹ số liệu XNK gần đây sẽ thấy: con số 600% không có ý nghĩa thực tế bao nhiêu. Vì sao? Vì trước đây, mỗi năm TQ nhập đến 40% tổng lượng nhập gạo Việt thì cuối năm 2019, Trung Quốc chỉ còn nhập khẩu gạo VN một tỉ lệ cực thấp: 8% tổng nhập khẩu của họ, thậm chí tháng 1/2020 tỉ lệ này còn rớt nữa, chỉ còn 5,49%. Vậy nếu họ tăng nhập 600% thì chỉ là: hơn 66.000 tấn với giá trị tương đương 37 triệu USD.
Gạo VN xuất qua TQ hầu hết là GẠO XÁ, không thương hiệu. Họ mua rồi trộn, vô bao, gắn mác TQ bán nội địa hay xuất đi đâu, ta cũng không nắm. Từ sau 2014, ta không phải là đối tác nhập gao chính của họ nữa và gần đây, họ ngầm có chủ trương “không cấp cô ta cho VN”. Chủ trương này chắc chắn có liên quan ý đồ chính trị (có thể vì cần xô VN ra, để ưu ái những nước lân cận chăng, hoặc vì VN không “ngoan” trong vụ Biển Đông mà phải “trị” cho sợ?
2/ “NGƯỜI TÌNH CŨ” GIỜ ĐÃ RẼ LỐI TRÊN THỊ TRƯỜNG?
Bản đồ đối thủ cạnh tranh xuất gạo sang TQ nổi lên 2 đối thủ bất ngờ được TQ “cưng” quá mức đế vọt lên xếp hạng 1 và 3 về tỉ lệ tăng nhập khẩu gạo là: Myanmar và Lào. Đây là 2 nước rất nhiệt tình tham gia dự án “Vành đai con đường”; Myanmar thì Tập mới đi thăm ký thỏa thuận lớn ngày 17/1 (3 ngày trước khi Tập công bố dịch toàn quốc) còn Lào thì TQ tặng đường sắt 414 km trị giá hơn 4 tỷ USD sẽ hoàn thành năm 2021. Lào với ta vốn là anh em ruột thịt, thương nhau vậy mà giờ đã thành “tình cũ” trên thị trường lúa gạo?
Năm 2018, Myanmar đứng đầu danh sách gia tăng tỉ lệ nhập khẩu gạo của TQ, tăng 886% so năm trước, với giá trị là 31,5 triệu USD, còn Lào vọt lên thứ 3, tăng 455% mà giá trị còn cao hơn Myanmar: 38 triệu USD (tổng kim ngạch xuất gạo của Lào ra thế giới năm đó chỉ là 44 triệu USD). Mấy tháng đầu năm 2020, Lào nhập gạo VN (2 nước Việt-Lào đã ký thỏa thuận thuế suất bằng 0) tăng 2.655%. Dân Lào ăn nếp và gạo xuất đi đâu thì chắc ai cũng biết. Tháng 10/2019, Lào và TQ đã đẩy mạnh hợp tác XNK, xây dựng trung tâm kiểm định nông sản và các thỏa thuận chung về tiêu chuẩn.
HIện nay TQ dự trữ lượng gạo 120 triệu tấn, là thừa so với mức trung bình dự trữ gạo của các nước trên thế giới. Nhưng họ vẫn chưa mở kho để dùng, sau cao điểm dịch, mà vẫn giữ gạo đó và tiếp tục đi mua. Có thể họ vẫn giữ chủ trương không mua nhiều của VN, mà cũng có thể họ mua nhiều. Hoặc họ “tung hỏa mùa” giương đông kích tây mua giá cao, đặt hàng nhiều, để thương lái và nông dân VN mắc bẫy, cùng nhau tăng mạnh làm lúa cho mùa tới rồi mắc cạn như những lần trước?.
3/ VN VÀ ĐBSCL KHÔNG THỂ CỨ LÀM LÚA GẠO THEO LỐI CŨ NỮA.
Thực tế, giới mua bán lúa gạo đều biết các CT XNK gạo của ta hiện cũng đang muốn bán ra vì lúa thu đông còn tồn kho, năng lực trữ yếu, bán để thu hồi vốn, đảo kho, chuẩn bị mùa mới... và sẽ xảy ra tranh bán, đạp giá nhau dù TQ mua nhiều hay không. Vậy nếu có chỉ đạo của TW về “an ninh lương thực” thì giải quyết được vấn nạn này chăng?
Điều đáng lo là đồng bằng sông Cửu Long giờ đang vướng 2 đại họa: nạn CoViD cùng cả nước và lại còn hạn, mặn thảm khốc. Đảm bảo “an ninh lương thực” thế nào đây?
Chắc chắn là sau nạn hạn, mặn năm nay, nông nghiệp ĐBSCL buộc phải có tư duy khác, cách làm khác nếu không muốn thất bại thảm bại.
Sông Mekong ngày càng cạn phù sa. Nước ngọt sẽ còn thiếu dài dài. Lao động chính hiện thiếu nghiêm trọng... Nhưng trong một loạt yếu tố xám xịt đó, không thể quên là gạo đồng bằng giờ vang danh”Ngon nhất thế giới”. Ngay thị trường nội địa hiện nay, gạo ST24, ST25 vẫn đang đánh bạt gạo Miên, gạo Thái để đứng nhất bảng, hút khách nhất, mà không có để bán. Xâm nhập mặn khiến cho phương thức lúa tôm trồng ST trên nước lợ càng hứa hẹn. Phải ngồi lại tính cụ thể thôi chứ nói chung chung hỡi hỡi lúc này là thua chắc. Bao nhiêu diện tích là vừa cho an ninh lương thực (cho thỏa nỗi ám ảnh của không ít quan chức VN, nói gì đầu họ cũng “cứng khừ” nỗi lo mất an ninh lương thực, dù trong nồi cơm nhà họ, không bao giờ có loại gạo giá bèo).
Giám đốc Sở nông nghiệp một tỉnh lớn ĐBSCL nói với tôi, “trên” vẫn chỉ đạo, “áp” mệnh lệnh và chỉ tiêu đảm bảo an ninh lương thực với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 9-10%/năm, phấn đấu đến năm 2030, nông nghiệp phải đạt kim ngạch xuất khẩu 100 tỷ USD! Bao nhiêu cuộc hội thảo hoành tráng, hùng hồn khẳng định quan điểm làm nông nghiệp bền vững, phát triển “thuận thiên”, phải phá thế độc canh cây lúa, khuyến khích làm lúa giá trị cao, giảm 3 vụ lúa xuống để đất phục hồi...vẫn chỉ là những văn kiện rực dấu đỏ và nằm yên, ngủ đông trên giấy?
Suốt năm 2020 và những năm tới, vẫn cứ ép đất đai ĐBSCL oằn mình ngậm thêm hàng tấn phân, thuốc độc hại, căng sức chạy cho đủ sản lượng, chỉ tiêu, thì ĐBSCL không chêt dần chết mòn mới lạ?
Vũ Kim Hạnh
(FB Vũ Kim Hạnh)
Giám đốc Sở nông nghiệp một tỉnh lớn ĐBSCL nói với tôi, “trên” vẫn chỉ đạo, “áp” mệnh lệnh và chỉ tiêu đảm bảo an ninh lương thực với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 9-10%/năm, phấn đấu đến năm 2030, nông nghiệp phải đạt kim ngạch xuất khẩu 100 tỷ USD! Bao nhiêu cuộc hội thảo hoành tráng, hùng hồn khẳng định quan điểm làm nông nghiệp bền vững, phát triển “thuận thiên”, phải phá thế độc canh cây lúa, khuyến khích làm lúa giá trị cao, giảm 3 vụ lúa xuống để đất phục hồi...vẫn chỉ là những văn kiện rực dấu đỏ và nằm yên, ngủ đông trên giấy?
Suốt năm 2020 và những năm tới, vẫn cứ ép đất đai ĐBSCL oằn mình ngậm thêm hàng tấn phân, thuốc độc hại, căng sức chạy cho đủ sản lượng, chỉ tiêu, thì ĐBSCL không chêt dần chết mòn mới lạ?
Vũ Kim Hạnh
(FB Vũ Kim Hạnh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét