Một báo cáo về xếp hạng đại học Việt Nam
Thứ hai, Ngày 4 tháng 9 năm 2017
Trong khi chưa lọt vào các bảng xếp hạng quốc tế uy tín thì liệu các trường đại học Việt Nam có cách nào để tự xếp hạng với nhau, nhằm có thêm thông tin tham khảo và qua đó thúc đẩy các đại học đổi mới và nâng cao chất lượng? Một nhóm chuyên gia độc lập đã giải đáp câu hỏi này bằng cách tiến hành và công bố một bảng xếp hạng tổng thể đối với 49 trường đại học. Tia Sáng xin giới thiệu bài viết của nhóm về phương pháp đánh giá và những kết quả sơ lược của bảng xếp hạng lần đầu có ở Việt Nam này.Xu hướng chung
Đánh giá và xếp hạng đang là mối quan tâm lớn của các trường đại học trên thế giới. Đặc biệt, từ năm 2003, khi Đại học Giao thông Thượng Hải công bố bảng xếp hạng đại học toàn cầu lần đầu tiên, và sau đó là sự ra đời các bảng xếp hạng đại học khác, như Times Higher Education (THE), World University Rankings (QS), Webometrics,… thì việc xếp hạng đại học đã nổi lên thành một xu hướng mới, thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng giáo dục đại học. Không chỉ sinh viên tham khảo kết quả xếp hạng để chọn trường, mà bản thân các trường cũng sử dụng kết quả này để điều chỉnh hoạt động của mình.Giữa các trường đã âm thầm diễn ra cuộc đua thăng hạng đầy gay cấn. Tụt hạng, thăng hạng, hay lọt vào các Top 100, 200 hay 500 trường đại học trên thế giới giờ đây trở thành mối quan tâm hàng đầu của các trường đại học cũng như của các quốc gia đang muốn có nền giáo dục đại học hội nhập với thế giới.
Ở Việt Nam, năm 2013, Báo cáo Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020 có một hạng mục đáng lưu ý: Đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu có một trường đại học lọt Top 200 đại học tốt nhất trên thế giới. Ngay khi đó, giới chuyên môn đã cho rằng, đó là mục tiêu quá xa vời.Và thực tế diễn ra đúng như vậy. Cho đến nay, năm 2017, trong các bảng xếp hạng đại học uy tín, Việt Nam vẫn chưa có trường đại học nào lọt vào danh sách Top1000 đại học trên thế giới. Các trường đại học của Việt Nam thậm chí còn không có tên trong danh mục các bảng xếp hạng này.
Điều đó cho thấy, mục tiêu lọt vào Top 200 đại học trên thế giới vào năm 2020 không thể nào đạt được. Quan sát sự thay đổi vị trí của các trường đại học trong các bảng xếp hạng, chúng ta thấy, không có cách nào để một trường đại học thăng hạng từ vị trí ngoài Top1000 vào Top 200 chỉ trong ba năm.
Xếp hạng đại học Việt Nam: Nhu cầu có thật
Dù còn nhiều tranh cãi, xếp hạng đại học vẫn đang là một xu hướng. Ở góc độ nào đó, xếp hạng cũng là một cách để đánh giá các đại học một cách định lượng, nhằm có thông tin tham khảo tốt hơn cho sinh viên, xã hội và bản thân các trường. Nhưng không lọt vào danh sách của các bảng xếp hạng quốc tế uy tín thì liệu chúng ta có cách nào để tự đánh giá xếp hạng mình?
Năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học. Theo đó, các đại học của Việt Nam được phân thành ba hạng: Hạng 1, tương ứng với 30% số trường có điểm cao nhất; Hạng 2, tương ứng với 40% số trường có điểm cao thứ 2; Hạng 3, tương ứng với 30% số trường còn lại, có mức điểm thấp nhất.
Tuy nhiên, cách phân tầng các trường đại học thành ba tầng khác nhau không cung cấp góc nhìn chi tiết về thực trạng của các trường, do đó thiên về phân loại các trường thay vì xếp hạng các trường như cách làm của các bảng xếp hạng quốc tế phổ biến, do đó không tạo ra động lực để các trường phấn đấu cải thiện chất lượng. Chưa kể, việc phân tầng như vậy đã gây ra nhiều tranh cãi. Cho đến nay, sau hai năm ban hành nghị định, bảng xếp hạng phân tầng đại học vẫn chưa thấy được công bố.
Tuy đã gặt hái được những thành tựu nhất định, nhiều trường đại học Việt Nam đang đối diện với không ít thách thức và hạn chế, đó là: thiếu động lực cạnh tranh và nâng cao chất lượng mạnh mẽ; thiếu động lực trong minh bạch thông tin; và thiếu động lực hội nhập quốc tế. Việc có một bảng xếp hạng toàn diện có thể góp phần giúp giải quyết ba vấn đề này.
Bảng xếp hạng của nhóm chuyên gia độc lập
Việc có một bảng xếp hạng đại học Việt Nam toàn diện và độc lập, thay vì chỉ phân tầng chung chung, trở thành một nhu cầu thiết yếu. Vì thế, một nhóm chuyên gia độc lập đã tiến hành thu thập số liệu, xây dựng bộ tiêu chí xếp hạng đại học toàn diện tương tự như các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới, dựa trên các nguyên tắc: phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, định lượng, khả tín, khách quan và hướng tới chuẩn mực quốc tế.
Chất lượng của trường đại học nằm chủ yếu ở các sản phẩm mà nó tạo ra, một phần khác ở nguồn lực giúp nó tạo ra các sản phẩm đó. Vì thế, vị thế của một đại học sẽ được đánh giá thông qua chất lượng kết quả của các hoạt động nghiên cứu (đo bằng kết quả nghiên cứu đã công bố, đề tài khoa học, v.v..); chất lượng của các hoạt động đào tạo (đo bằng tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm, tỷ lệ giảng viên/sinh viên, chất lượng đầu vào, v.v..); và quy mô cơ sở vật chất, chất lượng quản trị của chính nhà trường, cơ sở vật chất là nền tảng đảm bảo một môi trường học thuật có chất lượng.
Không chỉ bảng xếp hạng mà cả bộ tiêu chí và phương pháp phân tích cũng được công khai cho cộng đồng tham khảo1. Cụ thể:
Ba nhóm tiêu chí dùng để xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam với các trọng số tương ứng khác nhau, phản ánh góc nhìn riêng của nhóm chuyên gia, được thiết kế thông qua thảo luận nội bộ và tham khảo các bảng xếp hạng đã có trên thế giới. Theo đó, hai nhiệm vụ chính của nhà trường, bao gồm đào tạo và nghiên cứu khoa học, được đánh giá là quan trọng như nhau, nên mỗi bên đều chiếm 40% trọng số. Tuy nhiên, để có thể làm tốt được việc đào tạo và nghiên cứu thì cơ sở vật chất, chất lượng quản trị nhà trường, cũng có đóng góp quan trọng, do đó chiếm 20% trọng số còn lại.
Tương tự như vậy, các tiêu chí lớn lại được chia thành các tiêu chí nhỏ hơn, với các trọng số tương ứng. Mỗi tiêu chí thành phần được lựa chọn phải thỏa mãn các điều kiện sau:
i. Phản ánh chất lượng của cơ sở giáo dục theo nguyên tắc xếp hạng đã được thiết lập;
ii. Lượng hóa được (measurable) dưới dạng số liệu (data);
iii. Giúp phân biệt được một cách định lượng cao thấp giữa các trường với nhau;
iv. Số liệu (data) của tiêu chí phải thu thập được (collectable) từ các nguồn công khai trên internet, bao gồm trang web của trường, cơ sở dữ liệu khoa học quốc tế (Web of Science, Scopus), v.v..;
v. Số liệu (data) của tiêu chí phải hiện hữu trên tối thiểu 2/3 số trường được lựa chọn.
Với mỗi nhóm tiêu chí, các tác giả cố gắng cân bằng trọng số giữa chất lượng và quy mô của các tiêu chí thành phần. Nếu chỉ tập trung vào khía cạnh chất lượng, những đơn vị nhỏ, số sinh viên ra trường ít, kèm theo đó là tầm ảnh hưởng của nguồn nhân lực được nhà trường đào tạo đến sự phát triển của xã hội thấp hơn lại có thể có thứ hạng cao. Ngược lại, nếu chỉ tập trung vào quy mô, các cơ sở giáo dục đại học lớn (về số lượng sinh viên, đội ngũ giảng viên và nguồn lực về cơ sở vật chất) sẽ dễ dàng có vị trí rất cao trong bảng xếp hạng.Điều này dẫn tới vị trí xếp hạng sẽ gần như không đổi hằng năm, trong khi yếu tố quan trọng là sản phẩm đầu ra của cơ sở giáo dục đại học (kết quả nghiên cứu, chuyên môn của người được đào tạo) bị xem nhẹ. Trong bảng xếp hạng này, các tác giả phân bổ hai tiêu chí lượng hóa quy mô-chất lượng theo tỷ lệ tương đương 1:1.
Các tiêu chí và trọng số tương ứng được lựa chọn như sau:
* Nghiên cứu khoa học (40%)
* Giáo dục và đào tạo (40%)
* Cơ sở vật chất và quản trị (20%)
Phân bổ về điểm số và tiêu chí thành phần lại được chia nhỏ chi tiết hơn, như sau:
Thước đo về nghiên cứu khoa học được đánh giá dựa trên số liệu là các công trình khoa học xuất bản trên các tạp chí quốc tế thuộc danh mục SCI/SCIE, gồm:
* Quy mô và chất lượng nghiên cứu (20%)
* Mức độ ảnh hưởng trong khoa học của các nghiên cứu (10%)
* Năng suất nghiên cứu (10%)
Thước đo về giáo dục và đào tạo tập trung đánh giá quy mô, chất lượng sinh viên và đội ngũ giảng dạy:
* Quy mô đào tạo (10%)
* Đội ngũ giảng dạy (10%)
* Chất lượng giảng dạy (10%)
* Chất lượng sinh viên (10%)
Thước đo về cơ sở vật chất và quản trị gồm:
* Giảng đường và thư viện (10%)
* Chất lượng quản trị (10%)
Nguồn số liệu cho hai thước đo sau được lấy từ báo cáo ba công khai, công bố trên website của trường, điểm thi đại học và chỉ số minh bạch thông tin. Bộ tiêu chí được lựa chọn sao cho có thể đo lường được, khả thi trong thu thập số liệu và tự kiểm chứng được một cách độc lập.
Lưu ý rằng, báo cáo này chỉ là một cách xếp hạng các đại học Việt Nam phản ánh góc nhìn của các chuyên gia tham gia tiến hành.Các nhóm chuyên gia khác có thể đưa ra những trọng số khác, với kết quả xếp hạng có thể khác đi.
Kết quả ban đầu: Một vài bất ngờ
Đề án xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam của nhóm được bắt đầu tiến hành từ năm 2014, thông qua nhiều bước, bao gồm xây dựng tiêu chí, thử nghiệm mẫu số nhỏ, tối ưu hóa tiêu chí, thu thập số liệu ở số lượng mẫu quy mô lớn, xử lý số liệu và thiết lập bảng xếp hạng. Trong lần công bố đầu tiên này, nhóm chỉ xếp hạng 49 trường đại học có đầy đủ thông tin nhất trong số dữ liệu hơn 100 trường mà nhóm đã thu thập được.
Kết quả cho thấy, các đại học quốc gia và đại học vùng đều có thứ hạng cao. Ba trong tổng số năm trường top đầu là các đại học quốc gia và vùng ở trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, bao gồm Đại học Quốc gia Hà Nội (số 1), Đại học Đà Nẵng (thứ 4) và Đại học Quốc gia TPHCM (số 5). Trong Top 10 trường hàng đầu còn có sự góp mặt của các đại học lớn khác là Học viện Nông nghiệp (thứ 3), Đại học Cần Thơ (thứ 6), Đại học Bách khoa Hà Nội (thứ 7), và Đại học Sư phạm Hà Nội (thứ 10).
Điều gây ngạc nhiên là một số trường đại học trẻ, ít được biết đến hơn lại chiếm vị trí cao trong bảng xếp hạng, bao gồm trường Đại học Tôn Đức Thắng (thứ 2) và trường Đại học Duy Tân (thứ 9). Thứ hạng cao chủ yếu đến từ thành tích về công bố quốc tế, phản ánh thành quả của chính sách đầu tư và khuyến khích xuất bản của các cơ sở giáo dục đại học này.
Các trường đại học thuộc khối kinh tế có tiếng lâu nay và là lựa chọn của nhiều sinh viên giỏi (điểm thi đầu vào luôn thuộc top 10-30% của phổ điểm) đều có xếp hạng trung bình, như các trường Đại học Ngoại thương (thứ 23), Đại học Thương mại (thứ 29), Đại học Kinh tế Quốc dân (thứ 30) và Học viện Tài chính (thứ 40). Nguyên nhân được cho là sự hiện diện của các trường này trên các ấn phẩm khoa học quốc tế còn mờ nhạt, đồng thời có thể quy mô đào tạo lớn hơn so với năng lực đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ (đo bằng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trên sinh viên).Các trường sẽ cần vượt qua nhiều thách thức, đặc biệt trong công bố quốc tế, nếu muốn vươn lên vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng thời gian tới.
Nhìn chung, các đại học có quy mô lớn và lịch sử lâu đời đều có vị trí cao. Tuy nhiên, các đại học “trẻ” hơn đang vươn lên ngày một mạnh mẽ nhờ tăng cường sự hiện diện trên các ấn phẩm khoa học. Sức ép cạnh tranh sẽ khiến các trường đại học không dựa được vào ánh hào quang “truyền thống” nữa, mà cần đầu tư theo chiều sâu vào nghiên cứu và nâng cao chất lượng giáo dục.
Đây là lần đầu tiên một bảng xếp hạng đại học Việt Nam được xây dựng và công bố bởi một nhóm chuyên gia độc lập. Kết quả của nghiên cứu sẽ được công bố và thảo luận rộng rãi vào ngày 6/9/2017 tại Hà Nội2 và sau đó, Bảng xếp hạng đại học Việt Nam cùng Báo cáo chi tiết sẽ được đăng tải trên website: http://www.xephangdaihoc.com.
Hy vọng bảng xếp hạng đại học độc lập này sẽ trở thành nguồn tham khảo khả tín cho xã hội và tạo ra động lực cải cách cho các trường đại học Việt Nam, đồng thời mở ra phương pháp và tiền lệ đánh giá xếp hạng đại học cho các năm tới.
Nhóm Xếp hạng Đại học Việt Nam gồm: TS. Giáp Văn Dương, nhà nghiên cứu độc lập, Chủ tịch Công ty GiapGroup (đề xuất dự án xếp hạng); TS. Lưu Quang Hưng, nhà nghiên cứu làm việc tại Australia (chủ biên báo cáo xếp hạng); TS. Nguyễn Ngọc Anh, Giám đốc và Nhà kinh tế trưởng của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách DEPOCEN (đồng chủ biên báo cáo); TS. Ngô Đức Thế, nhà nghiên cứu đang làm việc tại Đại học Manchester, Anh. (Tia Sáng)
1 Bài viết tiếp theo trên Tia Sáng của nhóm sẽ trình bày rõ hơn cách lựa chọn tiêu chí và trọng số tương ứng.
2 Sự kiện này sẽ diễn ra vào 15 giờ ngày 6/9 tại Cà phê Trung Nguyên, 52 Hai Bà Trưng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét