Văn hóa và phát triển quốc gia
Gs Trần Cảnh Xuân
Ngày nay nhiều học giả và sử gia nhận định rằng sự tiến bộ và phát triển quốc gia tùy thuộc vào nền văn hóa của quốc gia đó. Trong ý hướng đó chúng ta thử tìm hiểu văn hóa là gì, ảnh hưởng của văn hóa đối với xã hội và đời sống của dân chúng ra sao. Nói một cách khác là đời sống kinh tế, trình độ giáo dục và dân trí, tình trạng an ninh và an sinh của người dân có được bảo đảm không. Hạnh phúc của người dân tùy thuộc vào các yếu tố nói trên. Nếp sống xã hội, cơ cấu tổ chức quốc gia và sinh hoạt của người dân tùy thuộc vào thể chế pháp lý và chế độ chính trị của quốc gia đó.
Chúng ta thử tìm định nghĩa của văn hóa là gì. Nhà nhân chủng học Clifford Geertz định nghĩa văn hóa là "lối sống toàn diện của con người trong xã hội như giá trị xã hội, thái độ, lối xử thế, ngôn ngữ, tư tưởng, tôn giáo . . . (Culture is refered as "thick description" and used it as to refer the entire way of life of a society: it values, practices, symbol, institutions, and human relationship (1). Như vậy nếu yếu tố văn hóa giúp nâng cao sự tiến bộ của con người thì văn hóa cũng có thể thay đổi khi một xã hội bị thoái hóa cùng cực.
Chúng ta thử tìm định nghĩa của văn hóa là gì. Nhà nhân chủng học Clifford Geertz định nghĩa văn hóa là "lối sống toàn diện của con người trong xã hội như giá trị xã hội, thái độ, lối xử thế, ngôn ngữ, tư tưởng, tôn giáo . . . (Culture is refered as "thick description" and used it as to refer the entire way of life of a society: it values, practices, symbol, institutions, and human relationship (1). Như vậy nếu yếu tố văn hóa giúp nâng cao sự tiến bộ của con người thì văn hóa cũng có thể thay đổi khi một xã hội bị thoái hóa cùng cực.
Thí dụ hai quốc gia Đức và Nhật có một nền văn hóa rất cao và hữu hiệu, đầy tham vọng và hiếu chiến đã trở thành hai quốc gia hiếu hòa sau khi bị các quốc gia đồng minh và Mỹ đánh bại. Nhờ trình độ văn hóa cao, hai quốc gia này đã thay đổi nhanh chóng để thích ứng với cộng đồng thế giới và vẫn duy trì vai trò lãnh đạo về kỹ thuật và kinh tế trong thế giới.
Tôn giáo cũng là một yếu tố văn hóa có thể quyết định sự thành bại của một quốc gia. Sử gia Max Weber trong tác phẩm "The Protestant Ethic and the Spririt of Capitalism" (Đạo Lý Tin Lành và Tinh Thần Chủ Nghĩa Tư Bản, ấn hành năm 1905) đã nhận định rằng tinh thần đạo Tin Lành đã giúp phát triển chủ nghĩa tư bản hơn một thế kỷ nay. Thực tế hầu hết các quốc gia theo tín ngưỡng Tin Lành như Mỹ, Đức và các quốc gia vùng Bắc Âu như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch . . . đều là những nước có mức tổng sản lượng quốc gia (GDP) cao nhất thế giới.
1. Denmark $52,320 US
2. Finland $42,700
3. Germany $37,700
4. Netherlands $44,630
5. Norway $86,710
6. Sweden $47,300
7. Switzerland $69,050
8. United Kingdom $38,360
9. United States $48,070
Các nước Á Châu:
1. Nhật $44,440 US
2. Singapore $45,200
3. Trung Quốc $4,800
4. Ấn Độ $1,500
5. Phi Luật Tân $2,200
6. Malaysia $8,700
7. Indonesia $3,280
8. Viet Nam $1,200
9. Nga $12,280
10. Nam Hàn $22,050 (2)
Ngày nay thuyết của ông Max Weber không còn được nhiều người tin tưởng vì có những quốc gia không thuộc đạo Tin Lành và đã phát triển rất cao như Nhật, Singapore và Nam Hàn. Một yếu tố khác hơn là tôn giáo đã được đặt ra đối với các quốc gia phát triển tại Á Châu như là Nhật, Sinpapore và Nam Hàn là động lực tự tại của dân tộc đã được phát huy tối đa (no empowerment is so effective as self-empowerment: không có một sức mạnh nào hữu hiệu cho bằng sức mạnh do mình tạo ra).
Tôn giáo cũng là một yếu tố văn hóa có thể quyết định sự thành bại của một quốc gia. Sử gia Max Weber trong tác phẩm "The Protestant Ethic and the Spririt of Capitalism" (Đạo Lý Tin Lành và Tinh Thần Chủ Nghĩa Tư Bản, ấn hành năm 1905) đã nhận định rằng tinh thần đạo Tin Lành đã giúp phát triển chủ nghĩa tư bản hơn một thế kỷ nay. Thực tế hầu hết các quốc gia theo tín ngưỡng Tin Lành như Mỹ, Đức và các quốc gia vùng Bắc Âu như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch . . . đều là những nước có mức tổng sản lượng quốc gia (GDP) cao nhất thế giới.
1. Denmark $52,320 US
2. Finland $42,700
3. Germany $37,700
4. Netherlands $44,630
5. Norway $86,710
6. Sweden $47,300
7. Switzerland $69,050
8. United Kingdom $38,360
9. United States $48,070
Các nước Á Châu:
1. Nhật $44,440 US
2. Singapore $45,200
3. Trung Quốc $4,800
4. Ấn Độ $1,500
5. Phi Luật Tân $2,200
6. Malaysia $8,700
7. Indonesia $3,280
8. Viet Nam $1,200
9. Nga $12,280
10. Nam Hàn $22,050 (2)
Ngày nay thuyết của ông Max Weber không còn được nhiều người tin tưởng vì có những quốc gia không thuộc đạo Tin Lành và đã phát triển rất cao như Nhật, Singapore và Nam Hàn. Một yếu tố khác hơn là tôn giáo đã được đặt ra đối với các quốc gia phát triển tại Á Châu như là Nhật, Sinpapore và Nam Hàn là động lực tự tại của dân tộc đã được phát huy tối đa (no empowerment is so effective as self-empowerment: không có một sức mạnh nào hữu hiệu cho bằng sức mạnh do mình tạo ra).
Có lẽ sự phát triển mạnh của ba quốc gia Á Châu nói trên là do sự quyết tâm của người lãnh đạo và của dân tộc. Ngoài một số ít quốc gia đã phát triển (developed), còn lại hầu hết là đang phát triển (developing) và chưa phát triển (undeveloped).
Trong thể chế của các quốc gia phát triển, quyền lực không nằm trong tay của người lãnh đạo, của đảng lãnh đạo mà của mỗi công dân. Người dân các quốc gia này được trang bị sức mạnh (empowerment) và kiến thức dân chủ, tinh thần sáng tạo từ khi vào đời, vào trường và lớn lên trong một nền văn hóa, trong đó giá trị của mỗi công dân đều được đối xử bình đẳng, công bằng và tự do. Hầu hết tại các quốc gia đang hay chưa phát triển, quyền lực của người dân đã không được bổ sung mà trái lại còn bị tước đoạt. Sức mạnh của một quốc gia được phát huy từ sức mạnh của mỗi người công dân. Trong những quốc gia nào người lãnh đạo càng có nhiều quyền hành thì người dân chỉ là người tiêu cực trong một xã hội hỗn độn không lối thoát.
Giáo sư Trần Cảnh XuânHội KHoa học Kỹ Thuật
Ngày cuối năm 2011
(1) Culture Matters, Samuel P. Huntington, P. XV.
(2) The Economist, The World in 2011
Giáo sư Trần Cảnh XuânHội KHoa học Kỹ Thuật
Ngày cuối năm 2011
(1) Culture Matters, Samuel P. Huntington, P. XV.
(2) The Economist, The World in 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét