Kỉ niệm 32 năm trên xứ người
Hôm nay là ngày 26/1, ngày Quốc Khánh của Úc, còn gọi là Australia Day. Ba mươi hai năm trước ngày này (1982) tôi đến Sydney trong một chuyến bay 8 tiếng đồng hồ từ Bangkok của hãng Qantas. Thời gian 32 năm là một thế hệ, và có thể xem là gần nửa đời người. Mỗi năm cứ đến ngày này là tôi nhớ về những ngày đầu trên đất Úc.
Cảnh người lên đường định cư từ trại Panatnikhom
Rời Thái LanTin chúng tôi được đi định cư thật ra đã được thông báo trước đó 3 ngày. Ngày 22/1/1982, khi còn ở trại tị nạn Panatnikhom (tỉnh Chonburi), tôi nhận được thông báo là sẽ đi Úc. Từ Panatnikhom phải đi Bangkok và ở đó một ngày để làm thủ tục đi Úc. Đối với những người tị nạn, tin đi định cư là một tin mừng. Vì cuộc sống trong trại có quá nhiều khó khăn, tất cả ai ở trại tị nạn đều muốn rời trại càng sớm càng tốt để làm lại cuộc đời.
Cảnh sát Thái Lan canh giữ trại không dấu thái độ kì thị của họ đối với người Việt trong trại (nhưng lại có cảm tình với người Kampuchea và Lào, có lẽ hai nhóm người này hiền và “ngoan” hơn người Việt vốn có những tính quả thật khó ưa). Có người ví cuộc sống ở trại tị nạn là một cuộc sống địa ngục. Do đó, đi tị nạn cũng có nghĩa là thoát khỏi cái địa ngục trần gian này, thoát khỏi cái môi trường ngột ngạt và có khi đầy thù hận trong trại.
Đêm đó, chúng tôi – gồm 54 người có trong danh sách đi Bangkok – tổ chức tiệc ăn mừng. Nói “tiệc” là cho oai, chứ thực ra thì chỉ là những món “gà lựu đạn” và món ăn mà trại cung cấp. Gà lựu đạn là cụm từ dùng để chỉ những con gà chỉ còn xương như bị đạp lựu đạn, là món ăn mà trại cung cấp. Đáng lẽ theo qui chế của Liên hiệp quốc thì trại phải cung cấp thịt gà đàng hoàng cho người tị nạn, nhưng vì quan chức Thái Lan cũng có thói ăn chận và tham nhũng nên chỉ cung cấp cho mấy con gà lựu đạn này, còn thịt thì chắc họ bán ra ngoài thị trường. Có lẽ nhiều người khi nghe qua ăn cơm trọng trại tị nạn mà có gà thì ngạc nhiên lắm, nhưng sự thật là họ nấu cho tập thể ăn, cho nên nói "gà lựu đạn" là một đống xương gà được nấu một cách hỗ lốn, mà nhìn vào thì người ta khó phân biệt đó là thức ăn cho heo hay cho người. Tuy nhiên, khi nhận phần cơm về, với những tài chế biến khéo léo của người Việt, cái phần ăn kinh khủng đó trở thành những món ăn tương đối ngon miệng. Chúng tôi đã có một đêm ăn uống vui vẻ, mà cũng có phần lưu luyến, nhất là những người có người yêu chưa có tên trong danh sách đi định cư.
Sáng sớm ngày 23/1, chúng tôi đã chỉnh tề chờ xe bus đi Bangkok. Theo “truyền thống”, trại thường phát thanh ca khúc Biển nhớ của Trịnh Công Sơn (có đoạn “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”) để tiễn đưa chúng tôi lên đường. Chuyến xe khởi hành lúc 6 giờ sáng. Trên đường đi Bangkok, tôi quan sát cảnh nông thôn của Thái Lan và thấy chẳng khác gì Việt Nam mình, nên càng làm cho nỗi nhớ nhà thêm da diết. Nếu có khác biệt thì chỉ có xe cộ nhiều hơn và đường xá ở đây quá tốt so với bên Việt Nam. Còn những cánh đồng, nhà cửa, vườn tược, cây cối, v.v. thì hoàn toàn là cảnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
(Xin mở ngoặc ở đây để nói thêm: Năm 2007 khi tôi đi dự hội nghị ở Pattaya thuộc tỉnh Chonburi, tôi hỏi anh tài xế là Panatnikhom ở đâu, thì ngạc nhiên thay, anh ấy nói ngay tại tỉnh này: tỉnh Chonburi. Anh ta cho biết Panatnikhom là tên của một huyện xa của tỉnh Choburi. Có lẽ đúng là “huyện xa” vì tôi còn nhớ lúc đó ở trong trại cứ như là ở giữa nơi đồng không hiu quạnh, hay “middle of nowhere”. Không ngờ mấy chục năm trước mình ra đi từ đây và nay lại quay về đây. Cuộc đời đúng là “một cõi đi về”! Tôi quyết định đi về nơi mình từng ở (Panatnikhom) nhưng đến nơi thì không thấy bất cứ một dấu vết tị nạn nào cả, mà đã trở thành khu dân cư rất đông đúc và cây xanh).
Sau khoảng 5 giờ đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong các trại tị nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến Bangkok bằng một tâm trạng của một người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và xe ôtô chạy như mắc cửi, tôi mới thấy “Hòn ngọc Viễn Đông” Sài Gòn của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé nhỏ! Xe chở chúng tôi vào một trung tâm tạm trú mà sau này tôi mới biết đó là một nhà tù dành cho người nước ngoài. Tuy là nhà tù, nhưng tôi thấy tiện nghi thì khá hơn gấp trăm lần so với trại tị nạn Panatnikhom. Trại có nước tắm đầy đủ (chứ không phải 20 lít nước/ngày như ở Panatnikhom), ăn uống cũng đầy đủ hơn, và cảnh sát Thái ở đây cũng lịch sự hơn nhiều so với mấy người ở trại tị nạn. Tuy nhiên, chúng tôi không được phép ra ngoài trại. Trong thời gian ở đây, nhân viên sứ quán Úc vào làm thủ tục định cư cho chúng tôi.
Đến ngày 25/1 thì chúng tôi lên một chiếc xe bus khác để ra phi trường. Một lần nữa, tôi ngạc nhiên về sự trù phú của Bangkok, mà trong lòng thì buồn cho Sài Gòn của mình. Tôi tự hỏi chẳng biết bao giờ Sài Gòn mới được như Bangkok, và cũng không có câu trả lời, vì chút nữa đây tôi sẽ càng xa quê hương. Ngồi trong phòng chờ đợi ở phi trường, trong lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chính phủ Thái Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên biển Đông, nhưng dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhất, và vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái Lan. Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui là vì tôi biết sắp tới đây mình sẽ được tự do, được sang một xứ sở “văn minh”, và nhất là không còn bị giam cầm trong các trại tị nạn nữa. Tôi mường tượng ra vài giờ nữa đây, tôi sẽ đặt chân lên một nước rất đẹp, nơi có những thắng cảnh như nhà con sò và cầu cảng Sydney. Tôi sẽ làm gì ở đất nước đó vẫn là một câu hỏi lớn …
Đang miên man nghĩ chuyện tương lai thì nhân viên ICM cắt dòng suy nghĩ của tôi. Họ lùa chúng tôi lên chiếc máy bay khổng lồ (mà sau này tôi biết là Boeing 747) thuộc hãng hàng không QANTAS của Úc, và được sắp xếp ngồi ở những hàng ghế sau cùng trong máy bay. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được đi máy bay to lớn như thế. Đang loay hoat tìm cái thắt dây an toàn thì tiếp viên đem đến cho chúng tôi khăn lau mặt thơm phức và li nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã thật sự xúc động và ngạc nhiên không hiểu tại sao họ lại tử tế với mình như thế! (Bây giờ tôi mới biết là lúc đó họ đâu có phân biệt khách tị nạn với khách thường đâu, ai họ cũng xem là khách hàng và phục vụ đàng hoàng như nhau).
Nguyễn Văn Tuấn
http://tuanvannguyen.blogspot.com/2014/01/ki-niem-32-nam-tren-xu-nguoi.html
Đêm đó, chúng tôi – gồm 54 người có trong danh sách đi Bangkok – tổ chức tiệc ăn mừng. Nói “tiệc” là cho oai, chứ thực ra thì chỉ là những món “gà lựu đạn” và món ăn mà trại cung cấp. Gà lựu đạn là cụm từ dùng để chỉ những con gà chỉ còn xương như bị đạp lựu đạn, là món ăn mà trại cung cấp. Đáng lẽ theo qui chế của Liên hiệp quốc thì trại phải cung cấp thịt gà đàng hoàng cho người tị nạn, nhưng vì quan chức Thái Lan cũng có thói ăn chận và tham nhũng nên chỉ cung cấp cho mấy con gà lựu đạn này, còn thịt thì chắc họ bán ra ngoài thị trường. Có lẽ nhiều người khi nghe qua ăn cơm trọng trại tị nạn mà có gà thì ngạc nhiên lắm, nhưng sự thật là họ nấu cho tập thể ăn, cho nên nói "gà lựu đạn" là một đống xương gà được nấu một cách hỗ lốn, mà nhìn vào thì người ta khó phân biệt đó là thức ăn cho heo hay cho người. Tuy nhiên, khi nhận phần cơm về, với những tài chế biến khéo léo của người Việt, cái phần ăn kinh khủng đó trở thành những món ăn tương đối ngon miệng. Chúng tôi đã có một đêm ăn uống vui vẻ, mà cũng có phần lưu luyến, nhất là những người có người yêu chưa có tên trong danh sách đi định cư.
Sáng sớm ngày 23/1, chúng tôi đã chỉnh tề chờ xe bus đi Bangkok. Theo “truyền thống”, trại thường phát thanh ca khúc Biển nhớ của Trịnh Công Sơn (có đoạn “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”) để tiễn đưa chúng tôi lên đường. Chuyến xe khởi hành lúc 6 giờ sáng. Trên đường đi Bangkok, tôi quan sát cảnh nông thôn của Thái Lan và thấy chẳng khác gì Việt Nam mình, nên càng làm cho nỗi nhớ nhà thêm da diết. Nếu có khác biệt thì chỉ có xe cộ nhiều hơn và đường xá ở đây quá tốt so với bên Việt Nam. Còn những cánh đồng, nhà cửa, vườn tược, cây cối, v.v. thì hoàn toàn là cảnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
(Xin mở ngoặc ở đây để nói thêm: Năm 2007 khi tôi đi dự hội nghị ở Pattaya thuộc tỉnh Chonburi, tôi hỏi anh tài xế là Panatnikhom ở đâu, thì ngạc nhiên thay, anh ấy nói ngay tại tỉnh này: tỉnh Chonburi. Anh ta cho biết Panatnikhom là tên của một huyện xa của tỉnh Choburi. Có lẽ đúng là “huyện xa” vì tôi còn nhớ lúc đó ở trong trại cứ như là ở giữa nơi đồng không hiu quạnh, hay “middle of nowhere”. Không ngờ mấy chục năm trước mình ra đi từ đây và nay lại quay về đây. Cuộc đời đúng là “một cõi đi về”! Tôi quyết định đi về nơi mình từng ở (Panatnikhom) nhưng đến nơi thì không thấy bất cứ một dấu vết tị nạn nào cả, mà đã trở thành khu dân cư rất đông đúc và cây xanh).
Trại tị nạn Panatnikhom (Chonburi, Thailand)
Sau khoảng 5 giờ đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong các trại tị nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến Bangkok bằng một tâm trạng của một người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và xe ôtô chạy như mắc cửi, tôi mới thấy “Hòn ngọc Viễn Đông” Sài Gòn của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé nhỏ! Xe chở chúng tôi vào một trung tâm tạm trú mà sau này tôi mới biết đó là một nhà tù dành cho người nước ngoài. Tuy là nhà tù, nhưng tôi thấy tiện nghi thì khá hơn gấp trăm lần so với trại tị nạn Panatnikhom. Trại có nước tắm đầy đủ (chứ không phải 20 lít nước/ngày như ở Panatnikhom), ăn uống cũng đầy đủ hơn, và cảnh sát Thái ở đây cũng lịch sự hơn nhiều so với mấy người ở trại tị nạn. Tuy nhiên, chúng tôi không được phép ra ngoài trại. Trong thời gian ở đây, nhân viên sứ quán Úc vào làm thủ tục định cư cho chúng tôi.
Đến ngày 25/1 thì chúng tôi lên một chiếc xe bus khác để ra phi trường. Một lần nữa, tôi ngạc nhiên về sự trù phú của Bangkok, mà trong lòng thì buồn cho Sài Gòn của mình. Tôi tự hỏi chẳng biết bao giờ Sài Gòn mới được như Bangkok, và cũng không có câu trả lời, vì chút nữa đây tôi sẽ càng xa quê hương. Ngồi trong phòng chờ đợi ở phi trường, trong lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chính phủ Thái Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên biển Đông, nhưng dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhất, và vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái Lan. Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui là vì tôi biết sắp tới đây mình sẽ được tự do, được sang một xứ sở “văn minh”, và nhất là không còn bị giam cầm trong các trại tị nạn nữa. Tôi mường tượng ra vài giờ nữa đây, tôi sẽ đặt chân lên một nước rất đẹp, nơi có những thắng cảnh như nhà con sò và cầu cảng Sydney. Tôi sẽ làm gì ở đất nước đó vẫn là một câu hỏi lớn …
Đang miên man nghĩ chuyện tương lai thì nhân viên ICM cắt dòng suy nghĩ của tôi. Họ lùa chúng tôi lên chiếc máy bay khổng lồ (mà sau này tôi biết là Boeing 747) thuộc hãng hàng không QANTAS của Úc, và được sắp xếp ngồi ở những hàng ghế sau cùng trong máy bay. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được đi máy bay to lớn như thế. Đang loay hoat tìm cái thắt dây an toàn thì tiếp viên đem đến cho chúng tôi khăn lau mặt thơm phức và li nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã thật sự xúc động và ngạc nhiên không hiểu tại sao họ lại tử tế với mình như thế! (Bây giờ tôi mới biết là lúc đó họ đâu có phân biệt khách tị nạn với khách thường đâu, ai họ cũng xem là khách hàng và phục vụ đàng hoàng như nhau).
Nguyễn Văn Tuấn
http://tuanvannguyen.blogspot.com/2014/01/ki-niem-32-nam-tren-xu-nguoi.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét