Tôi không tin cách giải thích trong bài này. Cũng có thể Bác Hồ không khen thơ Tố Hữu (các nhà thơ có bao giờ thật lòng khen nhau vì mỗi người có một phong cách riêng, hiểu cái hay của thơ theo phong cách riêng của mình), nhưng tôi tin là Bác rất quý Tố Hữu.
Trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng Khoa nói Tố Hữu thừa nhận “Bác chưa bao giờ khen thơ tôi”. Điều này như có vẻ hơi lạ vì cả Bác và Tố Hữu đều được liệt vào nhóm những người lấy văn nghệ làm vũ khí cách mạng. Bởi vậy, việc Bác không khen thơ Tố Hữu cũng cần được lý giải rõ ràng. Sau đây là mấy nhận định riêng của cá nhân tôi.
Tại sao Bác Hồ không khen thơ Tố Hữu
Bác Hồ và nhà thơ Tố Hữu Ảnh: TL
Thứ nhất, Tố Hữu thường tự hào cho mình là người giác ngộ sớm, giác ngộ sâu sắc lý tưởng cách mạng và có nhãn quan chính trị tốt. Không ngờ sự thật đã chứng minh ông chỉ là một người hơi ấu trĩ và ngây thơ trong nhận thức về XHCN và cách mạng. Ông cho rằng cách mạng VN cũng như Liên Xô, cứ thế tiến lên, vọt một cái, nhảy phốc lên CNXH, không thể thoái trào.Tệ hơn, ông tin rằng người lãnh đạo cộng sản nào cũng vĩ đại. Sai lầm lớn nhất của ông là lớn tiếng khen Stalin và Mao. Một người lãnh đạo công tác văn hóa tư tưởng mà sai lầm như thế, kể cũng đáng tiếc thật. Trong khi đó, Cụ Hồ có vẻ không hề đánh giá cao hai vị này. Bằng chứng là Hồ Chí Minh chưa từng nhắc đến tên hai vị này trong bất cứ bài nói bài viết nào của Người. Lịch sử đã chứng minh, so với Bác, tầm nhìn và tư duy của Stalin và Mao rất thiển cận. Ngoài Lênin ra, ở châu Á, Cụ Hồ thích Ghandi và Tôn Trung Sơn hơn cả. Tuy mang tiếng là đương lối tư sản nhưng tư tưởng hai vị này thực tế và khoa học hơn, gần Lênin hơn. Tố Hữu, vì thế, trong mắt Bác, đã mất điểm nhiều.
Trong bài SÁNG THÁNG NĂM, Tố Hữu ca ngợi Hồ chủ tịch khá hay. Bài đó, người ta đã phân tích nhiều. Tôi cũng không có ý kiến gì thêm. Đại ý Tố Hữu vẽ chân dung HCM giản dị mà vĩ đại, gần gũi. Người là kết tinh những giá trị văn hóa, vẻ đẹp tâm hồn và sức mạnh Việt Nam. Người là nguồn sức mạnh, nguồn động viên, là cảm hứng lao động, chiến đấu và sáng tạo của chúng ta. Tiếc thay khi kết thúc ông làm một câu rất mất hứng:
Việt Nam có Bác Hồ
Thế giới có Stalin
Việt Nam phải tự do
Thế giới phải hòa bình
Không biết Bác Hồ khi đọc mấy câu này, Người sẽ nghĩ gì. Tôi cứ tưởng tượng ra một nụ cười nhạt đầy ý nghĩa. [...]
Thời xưa, nhiều người tưởng Stalin đánh được phát xit Đức thì vĩ đại hơn cụ Hồ. Cách nghĩ ấy rất nông cạn. Tiếc rằng có nhiều người đã nghĩ thế. Để xét tài năng của ai đó, không thể xem anh ta đã làm ra cái gì mà phải xem anh ta làm ra nó bằng cái gì, như thế nào. Stalin trưởng thành trong môi trường khác, HCM hoạt động trong điều kiện khó khăn hơn rất nhiều. Còn bây giờ xét về tư tưởng, tầm nhìn xa, cụ Hồ là ai, Stalin là ai, chắc ta cũng chẳng phải nói nhiều. Cho Cụ Hồ ngồi chung chiếu với Stalin, có thể Cụ còn chê không ngồi. Huống chi đặt Stalin cao hơn Cụ.
Thứ hai, thơ Tố Hữu đôi khi hay thổi kèn đánh trống ầm ĩ về chiến thắng. Lúc nào ông cũng hừng hực khí thế tấn công. Đôi khi ông tỏ ra hiếu chiến. Trong thơ, ông như muốn thách thức này Mỹ, này Pháp, ngon thì nhào vô đi. VN sẵn sàng đánh nhau đây! Với người biết suy nghĩ sâu xa như Bác, tư tưởng như vậy Tố Hữu tỏ ra rất non nớt. Cụ Hồ coi chiến tranh là bất đắc dĩ, cố hết sức để tránh chiến tranh. Không tránh được thì mới phải đánh nhau.
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên là bài thơ hay nhất của Việt Nam về chiến dịch lịch sử đó. Nhưng Bác bảo: “Đừng làm ầm quá thế. Mai đây còn đánh nhau nhiều nữa. Có thể còn phải đánh Mỹ. Đừng chủ quan!” Bác Hồ quả là có tầm nhìn chiến lược. (Theo Trần Đăng Khoa – Chân dung và Đối thoại)
Đọc lại bài Hoan hô chiến sỹ Điện Biên, chúng ta đều nhận thấy có những câu khá “lộng ngôn”. Trong khi đó để có chiến thắng này, ta đã tốn không biết bao nhiêu xương máu. Thắng thì thắng thật, vui thì vui thật nhưng đâu có dễ dàng mà “trống chiêng ầm ĩ”. Viết thế nhiều, có lẽ Bác sợ quân mình có thể chủ quan, coi thường địch.
Đó có thể là những lý do cơ bản để thơ Tố Hữu không được cụ Hồ khen ngay cả khi cái tên Tố Hữu đang ở thời hoàng kim nhất.
Nguyễn Hạnh (Văn hóa Nghệ An)
*********
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
(Tố Hữu, Việt Nam)
I (Tố Hữu, Việt Nam)
Tin về nửa đêm
Hỏa tốc hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa...
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp!
Sét đánh ngày đêm
Xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của
chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ
sao vàng vĩ đại
Kháng chiến ba nghìn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như
Huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng!
Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.
II
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm
giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta
lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh ngày
đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta
không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...
III
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết
Quyết trận này quét sạch Điện Biên!
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Của ta trời đất đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta
Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh
Hạ súng xuống rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!
Nghe trưa nay tháng năm, mùng bảy
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!
IV
Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít
Anh sẽ nói: "Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi!
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập hòa bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ
xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!"
(5-1954)
Lời bình của Trịnh Thanh Sơn
Nếu nói Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, nhà thơ thời sự thì Hoan hô chiến sĩ Điện Biên có lẽ là một trong những bài thơ thời sự nhất của ông. Theo ngày tháng đề dưới bài thơ (5-1954) thì ông viết bài thơ này ngay sau ngày Điện Biên Phủ chiến thắng.
Ngày "Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về là ngày 7-5-1954, thì ngày 11-5-1954, báo Nhân Dân đã in trang trọng trên trang nhất bài thơ này của Tố Hữu. Có nghĩa là, từ khi viết cho đến lúc bài thơ ra mắt hàng triệu độc giả chỉ vẻn vẹn có bốn ngày.
Bài thơ dài tới 96 câu thơ, viết bằng thể thơ tự do có vần (Tố Hữu không viết thơ không vần bao giờ), xen lẫn những đoạn lục bát và vài ba câu song thất, như những lời hát hân hoan xen vào một ký sự thơ.
Cả bài thơ mang một tiết tấu nhanh, mạnh; khỏe ào ào như sóng reo, thác cuốn, lửa cháy và bão táp. Câu, chữ trong thơ là câu chữ dân giã, dễ hiểu, mang hàm lượng thông tin rất cao. Sắc độ chính, xuyên suốt bài thơ là tiếng reo vui, hân hoan chiến thắng. Ngay "tít" bài thơ cũng thể hiện điều đó: "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên"! Lấy một tiếng reo vui, một câu khẩu ngữ mang tính khẩu hiệu làm đầu đề cho bài thơ Tố Hữu đã khẳng định âm hưởng chính cho bài thơ của ông rồi: Đây là niềm hân hoan chiến thắng.
Bài thơ dài, vì thế nhà thơ tổ chức bố cục thật chặt chẽ và khoa học. Có thể thấy bài thơ được chia làm sáu đoạn nhỏ, mỗi đoạn mang một mầu sắc riêng và mang một sứ mạng cụ thể:
Đoạn 1 (bảy câu đầu): Đây là một tin thông tấn được viết dưới góc độ nhìn và tình cảm của một nhà thơ có trái tim yêu nước nồng nhiệt. Ông cho biết rõ thời gian ông nhận được tin, đó là "nửa đêm" (Tin về nửa đêm) và tin ấy đã đến với ông rất nhanh, rất kịp thời, rất "hỏa tốc" (Hỏa tốc, hỏa tốc). Rồi tin ấy đã đến với ông bằng một chiến sĩ thông tin đi ngựa (chứ không phải bằng điện đài - (Ngựa bay lên dốc). Sau khi ông biết tin, thì cả làng bản nơi ông ở đều cùng được biết:
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa!
Tuy nhiên, ta chỉ biết đó là một tin vui, từ một người nhân ra nhiều người, từ một nhà nhân ra nhiều nhà, từ một bản nhân ra nhiều bản. Nhưng tin vui đó là tin gì vậy, ông vẫn giấu, ông dành cái tin vui ấy cho câu mở đầu ở đoạn 2. Cái tài của người đưa - tin - thi - sĩ chính là ở đấy!
Đoạn 2 (bảy câu tiếp): Ngay câu mở đầu của đoạn 2, tác giả đã "bật mí" cái tin vui to lớn kia là tin gì: Nhưng vì là nhà thơ, thay vì nói "Chúng ta đã giải phóng Điện Biên rồi!", thì nhà thơ lại báo tin bằng một lời reo vui, một khẩu hiệu:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
Niềm vui to lớn quá làm cho nhà thơ không kìm nén nổi lòng mình, bật reo lên những lời xưng tụng, rất gần với khẩu ngữ mà vẫn tràn đầy chất thơ, ngợi ca vị tướng tài ba, ngợi ca Bác Hồ, những người trực tiếp chỉ đạo để làm nên chiến thắng lẫy lừng:
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp
... Vinh quang Hồ Chí Minh - cha của chúng ta ngàn năm sống mãi!
Quyết chiến quyết thắng cờ đỏ sao vàng vĩ đại!
Đọc tới đây, ta chợt nhớ đã có hơn một lần, nhà thơ cũng reo vui bồng bột và nồng nàn như thế. Đó là cái đêm lịch sử đứng dậy cướp chính quyền ở Huế, quê hương ông:
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy
Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!
Nước mắt ta trào híp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!
... Gió gió ơi! Hãy làm giông, làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi
Vàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi
Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác...
(Huế tháng Tám - Từ ấy)
Chín năm, sau niềm vui ấy là niềm vui hôm nay, dù có từng trải và ghìm nén hơn,nhưng những lời thơ hào sảng thì vẫn nguyên như thế, nguyên một hồn thơ dạt dào như thế; tràn qua đoạn 3 (9 câu):
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước như huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng!
Khúc hát hân hoan như một trữ tình ngoại đề, như một dàn đồng ca dào dạt cất lên, thông qua những câu lục bát như lời ru của Mẹ:
Điện Biên vời vợi ngàn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hòa vui chung?
Đoạn 4 (27 câu): Đây là đoạn thơ quan trọng nhất có sức nặng nhất của toàn bộ bài thơ. Tác giả dành hẳn 27 câu thơ để mô tả một cách trực diện cuộc chiến đấu gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta để giành thắng lợi cuối cùng. Mở đầu đoạn thơ quan trọng này, nhà thơ láy lại câu "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" như một tôn vinh, như một tượng đài bất tử:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Đó là bức chân dung sáng rỡ của tập thể những người chiến sĩ Điện Biên trong một cái nhìn toàn cảnh, còn đây là những đặc tả gương mặt của những anh hùng cụ thể, có tên tuổi như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... đã được nhà thơ khắc ghi vào lịch sử văn học đời đời:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm...
Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh, là cuộc chiến đấu toàn dân, toàn diện, có sự đóng góp sức lực và xương máu của cả nước. Nhà thơ đã ngợi ca điều đó trong những vần thơ kế tiếp: Và những chị, những anh đêm ngày ra tiền tuyến/ Mấy tầng mây gió lớn mưa to/ Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô anh hò chị hát/ Dù bom đạn xương tan thịt nát/ Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh... Và tác giả khẳng định:
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng!
Hoa, quả của đất nước mãi còn từ máu và nước mắt, từ tuổi thanh xuân của những anh hùng, liệt sĩ Điện Biên, đó không chỉ là những lời an ủi mà là sự tôn vinh vĩnh hằng!
Đoạn 5 (22 câu): Nhà thơ dành đoạn thơ này để mô tả kẻ thù, những kẻ thù trực tiếp và gián tiếp, những kẻ xâm lược mà kết cục cuối cùng là sự thất bại thảm hại. Lời thơ ở đoạn này thật rắn rỏi, quyết liệt chứng tỏ một tinh thần không khoan nhượng trước kẻ thù! Nhà thơ vốn tài hoa và dịu dàng là thế mà không ngần ngại dùng những từ nhân xưng thật mạnh mẽ và thấm thía: "Lũ" và "nó" và "chúng bay":
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết
Quyết trận này quét sạch Điện Biên
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đường trời!
... Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh?
Những lời thơ ấy, không phải chỉ được viết ra sau khi chúng ta đã giành được chiến thắng; như một sự ăn theo, một tràng vỗ tay muộn mằn, mà nó hình thành ngay từ khi chúng ta quyết định đối đầu với Pháp ở Điện Biên Phủ. Niềm tin chiến thắng, niềm tin ở Đảng và Bác Hồ là động lực vô cùng to lớn để những chiến sĩ Điện Biên phất cờ chiến thắng trên hầm De Castries. Bức tranh hoành tráng này, nhà thơ vẽ trên núi rừng, sông suối của Điện Biên:
Nghe trưa nay, tháng 5, mồng 7,
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Và thêm một lần nữa, nhà thơ reo lên:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
Đoạn 6. Chiến thắng lẫy lừng ấy của toàn dân tộc từ đâu mà ra, do đâu mà có? Trong phút lắng lại của những ngày vui dào dạt, nhà thơ nhớ đến Bác Hồ và nghĩ tới công lao của Bác cho trận quyết đấu lịch sử này. Bằng tám câu thơ lục bát, nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh Bác kính yêu trong niềm vui của toàn dân tộc:
Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo
Từ khi vượt suối băng đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!
Đọc những câu thơ reo vui ấy, tự nhiên ta giật mình! Ừ nhỉ, chiến thắng Điện Biên (7-5-1954) chỉ cách sinh nhật lần thứ 64 của Bác hơn mười ngày! Nhà thơ liên hệ ngay rằng, chiến thắng này là những bông hoa của toàn dân tộc gửi lên mừng thọ Bác: "Tin về mừng thọ đêm nay/ Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!".
Cũng trong đoạn thơ thứ 6 này, nhà thơ nhớ tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng và phái đoàn ngoại giao Việt Nam ở Hội nghị Geneva. Tin chiến thắng Điện Biên sẽ làm cho chúng ta có được một tư thế mới trước kẻ thù:
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống bọn Bi đôn, Smít
Anh sẽ nói: Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi!
Và như thế, để chuyển sang phần kết của bài thơ mang vóc dáng một trường ca này. Ở đoạn cuối cùng, nhà thơ tuyên bố với thế giới rằng, chúng tôi, những người Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình. Và bài học Điện Biên này sẽ làm cho các dân tộc thuộc địa biết vùng lên giành quyền tự do, độc lập cho dân tộc mình. Nhà thơ khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ đã chôn vùi chế độ thực dân cũ:
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hòa bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!
Có thể nói, cùng với chiến thắng Điện Biên lịch sử, vang dội địa cầu, bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu đã làm nên bức tượng đài sừng sững tạc vào năm tháng, tạo một mốc son trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc nói chung và trong tiến trình thơ Tố Hữu nói riêng.
(Kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ), Hà Nội 2004 - Báo Văn Nghệ.
Quan điểm của chủ blog có vẻ rất hợp lý!
Trả lờiXóaCũng ghét lão TH này
Trả lờiXóalàm thì khó chê khen thì dễ hơn nhiều phải không bạn, bạn cứ nhào dô rồi để cho người khác chê khen cho tan xương nát thịt ra hề hề
Trả lờiXóatoan chem gio la cao
Trả lờiXóasợ bác H quá
Trả lờiXóahoc dan ghi ta