Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2020

Trung Quốc sẽ sụp đổ và ảnh hưởng tới Việt Nam

Tập Cận Bình sẽ khiến Trung Quốc sụp đổ và ảnh hưởng tới Việt Nam
Nguyễn Trường 2020-08-20 - Nếu Trung Quốc sụp đổ và kết thúc sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì điều đó sẽ mở ra một trang sử mới cho thế giới, đặc biệt là với Việt Nam - quốc gia có cùng hệ thống chính trị độc đảng như của Trung Quốc. Tại Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng đã sao chép chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình để tiêu diệt các đối thủ chính trị của mình, nhằm thâu tóm quyền lực. Chính vì vậy, nếu Trung Quốc suy yếu, thì đây sẽ là cơ hội cho người dân Việt Nam yêu cầu đảng cộng sản phải mở rộng không gian tự do, dân chủ, thoát khỏi ảnh hưởng và đe doạ từ Trung Quốc.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu
 tại cuộc họp của WHO hôm 18/5/2020
Một số đại dịch đã làm thay đổi hướng đi của lịch sử. Một số khác lại làm thay đổi bánh xe lịch sử. Vào thế kỷ 14, bệnh dịch hạch đã thay đổi lịch sử châu Âu bằng việc tái sắp xếp trật tự sức mạnh kinh tế, chính trị và tôn giáo lâu đời, ngay cả khi trật tự mới này phải mất hàng thập kỷ, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ, mới lộ rõ. Trong lịch sử gần đây của Trung Quốc, bệnh dịch hạch Mãn Châu vào năm 1910 đã tạo ra một cú hích cuối cùng đối với Nhà Thanh vốn đã suy yếu, khiến Nhà Thanh sụp đổ vào năm sau đó.

Đại dịch COVID-19 sẽ không khiến chế độ Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện nay sụp đổ ngay lập tức. Ngược lại, trong ngắn hạn, đại dịch cũng có thể giúp thắt chặt sự kìm kẹp độc đoán của chế độ đối với người dân Trung Quốc. Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình tiếp tục đảo ngược các chính sách “cải cách và mở cửa” vốn đã mang lại cho Trung Quốc 40 năm thịnh vượng nhất trong lịch sử hiện đại. 

Với việc đảo ngược các chính sách thành công trước đó, Tập Cận Bình đã làm suy yếu chế độ của ông ít nhất trên 4 khía cạnh: Quản trị đất nước, tăng trưởng kinh tế, gắn kết xã hội, và uy tín quốc tế. Mặc dù chế độ cai trị độc đoán của Tập Cận Bình dường như an toàn vào lúc này, nhưng đại dịch đã đẩy nhanh tất cả 4 xu hướng. Khi áp lực lên Tập Cận Bình gia tăng, ông và những người thân cận dễ có xu hướng hành động thiếu suy nghĩ để bảo vệ quyền lực của họ.

Quản trị đất nước

Từ lúc bắt đầu nhiệm kỳ vào năm 2012, Tập Cận Bình đã không còn trao quyền ra quyết định cho các cơ quan và tổ chức chính phủ, bắt đầu với Quốc vụ viện. Thủ tướng Lý Khắc Cường, người đứng đầu chính phủ trên danh nghĩa, đã bị gạt sang lề, và thay vào đó Tập Cận Bình trao quyền cho các tổ chức của đảng mà ông kiểm soát và cho cá nhân ông.

Ngay cả khi củng cố quyền lực bằng cách cải tổ các thể chế quản trị của Trung Quốc xung quanh mình, Tập Cận Bình cũng bắt đầu sử dụng một công cụ sắc bén hơn rất nhiều: chiến dịch chống tham nhũng. Chiến dịch này dần chuyển trọng tâm từ theo dõi những hành vi tài chính bất thường và sự suy đồi đạo đức sang kiểm soát tính chính thống về tư tưởng và trên hết là lòng trung thành của các cán bộ đối với Tập Cận Bình. Sự thay đổi trọng tâm này cho thấy rõ rằng về bản chất, chiến dịch này là một cuộc thanh trừng chính trị. Nó trừng phạt những ai cản trở sự thăng tiến của Tập Cận Bình lên vị trí đứng đầu của đảng, loại bỏ những đối thủ tiềm năng, và giải tán các phe phái gây tổn hại tới lợi ích của Tập Cận Bình. Các cơ quan chống tham nhũng có vị trí chắc chắn trong bộ máy quan liêu đảng-nhà nước.

Việc Tập Cận Bình định hình lại các thể chế đảng-nhà nước và các chiến dịch chống tham nhũng đã có tác động mạnh mẽ tới các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như các nhân viên chính phủ. Phong cách cai trị của Tập Cận Bình đã làm chậm quá trình ra quyết định ở mọi cấp trong bộ máy nhà nước và dập tắp những giải pháp chính sách mà các cán bộ gần như thụ động có lẽ từng đề xuất cho các vấn đề chính sách. Trong khi đó, trong bộ máy quan liêu trung ương và các bộ chủ quản, quyền lực ngày càng tập trung vào “ban lãnh đạo cốt lõi”: các quyết định phải đợi Tập Cận Bình và những người thân cận của ông phê chuẩn.


Hình minh hoạ. Một phụ nữ đeo khẩu trang phòng dịch COVID-19 đi qua bức hoạ vẽ Chủ tịch Tập Cận Bình ở Vũ Hán hôm 11/4/2020 AFP

Do vậy, khi dịch COVID-19 bùng phát lần đầu tiên ở Vũ Hán vào đầu tháng 1, các nhà chức trách ở Bắc Kinh đã trì hoãn 2 tuần trước khi áp đặt các biện pháp cách ly hà khắc đối với Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, sau đó là phần lớn Trung Quốc. Sự chậm trễ đã khiến vô số người Trung Quốc (và người nước ngoài) phải đánh đổi bằng mạng sống và nhấn chìm nền kinh tế Trung Quốc và thế giới, cho thấy nhược điểm của quá trình ra quyết định khi chỉ dựa vào một người duy nhất. Nếu các hệ thống cảnh báo được ca tụng của Trung Quốc - vốn được thiết lập sau dịch SARS năm 2003 - thực sự hoạt động, thì đại dịch năm nay có thể được ngăn chặn ngay từ giai đoạn đầu.

Tăng trưởng kinh tế
Tập Cận Bình đã đưa Trung Quốc quay ngược về thời điểm Đặng Tiểu Bình bắt đầu nỗ lực khôi phục nền kinh tế Trung Quốc bằng việc mở cửa cho đầu tư và thương mại nước ngoài và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân. Về lý thuyết, những gì lớn hơn phải tốt hơn, các doanh nghiệp nhà nước (SOE) trong ngành luyện thép, vận tải biển, đóng tàu, và các ngành công nghiệp nặng khác đã được tái kết hợp và sau đó nuốt chửng các công ty nhà nước bé hơn. Khi Chu Dung Cơ rời khỏi vị trí thủ tướng vào năm 2003, ông đã thấy trước con số các doanh nghiệp nhà nước thuộc quyền sở hữu của chính quyền trung trương bị thu hẹp trong 5 năm từ khoảng 180 doanh nghiệp xuống còn khoảng 15 doanh nghiệp, tất cả đều hoạt động trong lĩnh vực an ninh quốc gia như viễn thông và năng lượng. Hiện nay, còn có khoảng 100 “doanh nghiệp nhà nước trung ương”, tổng số đã bị giảm chủ yếu thông qua hoạt động hợp nhất. Dường như có rất ít ý nghĩa kinh tế trong quá trình sụt giảm này: Các doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng hàng triệu người, nhưng chiếm không quá 1/4 sản lượng quốc gia và thu hút 80% tín dụng ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp sẽ phá sản nếu theo kiểm toán của Big Four (4 hãng kiểm toán lớn nhất thế giới). Bằng việc giành được một số lượng lớn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp nhà nước lấn át các công ty tư nhân nhanh nhạy và tạo ra việc làm.

Tuy nhiên, các chính sách công nghiệp của Tập Cận Bình có lẽ ít mang ý nghĩa về kinh tế mà mang tính chính trị nhiều hơn - đó là chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngay cả khi ông ta ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời Tập Cận Bình cũng đã thắt chặt hoạt động kiểm soát đảng ở cả các công ty nhà nước và tư nhân. Trong khu vực nhà nước, trong đó có cả các doanh nghiệp nhà nước ở Hong Kong, các điều lệ thành lập doanh nghiệp đã bị sửa đổi, cho thấy bí thư đảng trong các công ty là người đưa ra quyết định chính. Cấp bậc điều hành của những công ty này đã được cải tổ để những người trung thành với Tập Cận Bình đảm nhận những công việc ở cấp cao nhất. Các giám đốc điều hành cấp cao chính là những đảng viên. Trong khu vực tư nhân, mặc dù ít công khai hơn, nhưng cũng có những thay đổi tương tự, với các đảng bộ hiện được đặt rộng rãi trong cả công ty Trung Quốc lẫn công ty nước ngoài.

Trong số tất cả những mối lo ngại của họ đối với nền kinh tế sau đại dịch, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc lo lắng nhất về việc làm. Đúng như vậy, vì việc duy trì công ăn việc làm và có thu nhập sẽ quyết định cả sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Các thống kê chính thức cho thấy GDP trong quý đầu tiên đã sụt giảm 6,8%, một con số thấp đến mức nực cười đối với một nền kinh tế mà trong đó hàng trăm triệu người dân thất nghiệp. Lệnh phong tỏa và cách ly ở địa phương trên thực tế khiến hầu hết mọi hoạt động di chuyển của người dân và hàng hóa trong nền kinh tế tạm dừng. Vì vậy, không mấy ngạc nhiên khi đưa ra ước tính có 80 đến 100 triệu người vẫn không có việc làm, có lẽ con số đó còn cao hơn nếu người ta tính đến cả lao động nhập cư, những người báo cáo cho nhà máy chỉ để rồi bị sa thải khi các nhà máy đóng cửa lần nữa vì thiếu đơn đặt hàng.

Triển vọng kinh tế của Trung Quốc trở nên tồi tệ hơn vì dân số già đi nhanh chóng và lực lượng lao động bị thu hẹp. Thực tế, Trung Quốc trở nên già đi trước khi trở nên giàu có. Tập Cận Bình đã lên kế hoạch kỷ niệm năm 2020 là năm Trung Quốc thực hiện lời hứa của đảng mang lại cho công dân Trung Quốc “một xã hội khá giả toàn diện”, nhưng dịch bệnh này chỉ tạo thêm những thách thức mới đối với việc đạt được mục tiêu này.

Sự gắn kết xã hội

Đại dịch COVID-19 cũng đã phơi bày những chia rẽ trong xã hội Trung Quốc giữa giàu và nghèo, thành thị và nông thôn, và các tỉnh ven biển và nội địa. Những chia rẽ này không mới nhưng ngày càng lớn hơn trong ít nhất 2 thập kỷ. Cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo từng xác định những chia rẽ đó trong các bài phát biểu của ông trước Đại hội đại biểu nhân dân và cho rằng chúng không bền vững. Dù có những lời nói đãi bôi từ Tập Cận Bình, nhưng hầu như không có việc gì được hoàn thành để cải thiện tình trạng mất cân bằng dai dẳng này kể từ khi Ôn Gia Bảo kết thúc nhiệm kỳ vào năm 2013.


Người Tây Tạng, Uighur tập trung bên ngoài Nhà Trắng ở Mỹ hôm 16/9/2015 để phản đối Chủ tịch Tập Cận Bình Reuters

Lệnh phong tỏa và cách ly đã khiến Trung Quốc vỡ vụn thành nhiều mảnh, nhiều lao động nhập cư đã bị mắc kẹt ở xa và không có bất kỳ khoản thu nhập nào. Những câu chuyện về giai cấp vô sản lưu manh sống ở gầm cầu trên đường cao tốc hoặc trong những bãi đất trống phủ sóng khắp truyền thông xã hội Trung Quốc, nhiều người phải đối mặt với nạn phân biệt đối xử ở những thành phố mà họ bị mắc kẹt. Khi đại dịch COVID-19 lan rộng, cảnh sát, “các ủy ban khu phố”, và lực lượng dân phòng tự phong đã được triển khai để thực hiện hoạt động cách ly, chiến thuật của họ đã gợi lại rất rõ những giai đoạn trước đó của “cuộc đấu tranh”. Việc sử dụng các camera giám sát được lắp đặt trên khắp Trung Quốc của Tập Cận Bình đã gia tăng tác động của việc huy động nguồn lực ồ ạt để đối phó với đại dịch. Được thử nghiệm lần đầu tiên để giám sát người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, các kỹ thuật - camera CCTV phổ biến, công nghệ nhận diện khuôn mặt, trí tuệ nhân tạo và mã QR - đã cho phép cảnh sát và các cơ quan chức năng khác theo dõi hành vi và hoạt động của người dân theo cách chưa từng thấy trước đây. Các công nghệ này cho phép chính quyền thu thập được nhiều thông tin về người dân.

Hơn nữa, sự kiểm soát của chế độ về mặt thông tin tạo điều kiện cho virus SARS-CoV-2 nhanh chóng lan ra ngoài Vũ Hán, tới các khu vực xung quanh, và chẳng bao lâu sau đã lây lan ra khắp cả nước, mọi nơi mà người dân từ Vũ Hán tới đó vào tháng 1, trước kỷ nghỉ Tết Nguyên đán. Một câu chuyện nổi tiếng về bác sĩ nhãn khoa Lý Văn Lượng, người phát hiện ra “virus corona chủng mới tương tự như SARS” ở các bệnh nhân tại Vũ Hán vào cuối tháng 12/2019 và đầu tháng 1/2020 và đã thông qua truyền thông xã hội cảnh báo cho các đồng nghiệp về virus này. Các nhà kiểm duyệt đã bắt gặp tin nhắn của Lý Văn Lượng, và cảnh sát địa phương đã bắt giữ ông và buộc ông phải thú nhận tội phát tán thông tin trái phép. Nếu người ta chú ý tới lời cảnh báo của Lý Văn Lượng và giới chức Vũ Hán chia sẻ thông tin với công chúng, thì đại dịch rất có thể đã được ngăn chặn ngay trước khi nó khởi phát.

Khi chính Lý Văn Lượng sau đó bị nhiễm virus và chết vì mắc COVID-19, công chúng Trung Quốc đã phá vỡ tường chắn của các nhà kiểm duyệt thể hiện sự phẫn nộ đối với chế độ đảng-nhà nước, việc họ thao túng thông tin và coi thường sức khỏe người dân. Các nhà kiểm duyệt yêu cầu đúng 10 ngày để đưa những lời bày tỏ công khai này trở lại tầm kiểm soát, và sau đó họ đã bắt đầu quảng bá câu chuyện của chính mình, mà cuối cùng đã biến Lý Văn Lượng thành một kẻ “tử vì đạo” cho Trung Quốc. Sự phẫn nộ của công chúng cho thấy họ mất lòng tin sâu sắc vào chế độ và thể hiện sự tức giận đối với các chiến thuật giải quyết mà chế độ đang áp dụng.

Uy tín quốc tế


Tập Cận Bình thậm chí đã từ bỏ chính sách đối ngoại “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình. Khi bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai vào tháng 11/2017, Tập Cận Bình đã có một bài phát biểu rất dài khai mạc Đại hội Đảng XIX, đặt ra một tầm nhìn thúc đẩy phương thức quản trị của Trung Quốc như một lựa chọn thay thế cho các mô hình dân chủ của phương Tây.

Để thể hiện tầm nhìn này, Bắc Kinh đã sớm đưa ra một loạt tuyên bố mới. Hành động được đi kèm với lời nói để lập nên các thể chế mới lấy Trung Quốc làm trung tâm. Các hành lang giao thông và các liên kết trao đổi thông tin mới lan tỏa từ Bắc Kinh được phát triển theo sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI), được xây dựng do Trung Quốc bỏ vốn và chỉ định nhà thầu của nước này xây dựng. Vào thời điểm Trung Quốc đang xây dựng một lực lượng hải quân biển khơi và tìm cách bảo vệ các tài sản của nhà nước-đảng ở nước ngoài, cơ sở hạ tầng BRI tạo cơ hội cho các căn cứ quân sự và trung tâm logistic, một hình thức khác của hợp nhất dân sự-quân sự mà Tập Cận Bình chủ trương ở trong nước. Là sáng kiến chính sách đối ngoại mang dấu ấn Tập Cận Bình, BRI được đưa vào điều lệ của đảng và hiến pháp quốc gia, đảm bảo sự tôn nghiêm và nguồn tài trợ nhà nước dồi dào.

Để bổ sung cho BRI, Tập Cận Bình nỗ lực thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB). Một tập đoàn tài chính quốc tế lớn gồm những người đóng góp và thụ hưởng được thành lập xung quanh AIIB, bất chấp sự phản đối của Mỹ. Ngân hàng mới này trở thành một mảnh ghép khác trong công trình mà Tập Cận Bình đang xây dựng như một lựa chọn thay thế cho trật tự quốc tế tự do vốn đã phát triển sau Chiến tranh thế giới thứ hai dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Tuy nhiên, với tư cách là bên hưởng lợi chính, Trung Quốc của Tập Cận Bình tiếp tục sử dụng trật tự đó - Tổ chức Thương mại thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới và hệ thống của Liên hợp quốc - để đem lại lợi thế cho Trung Quốc.

Khi đại dịch COVID-19 hoành hành, các nước khác đã buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm, nếu không phải vì sự bùng phát virus, thì chắc chắn là vì sự lây lan nhanh chóng của nó, Tập Cận Bình đã khuyến khích và tập trung thực hiện một phong cách “ngoại giao” thô lỗ, hiếu chiến và mang tính đe dọa. Phong cách ngoại giao này được đặt tên là “ngoại giao chiến lang” theo tên một bộ phim bom tấn của Trung Quốc, và đã được những phát ngôn viên ở Bắc Kinh và các phái viên của Trung Quốc ở nước ngoài sử dụng. Ở nhiều nước như Australia, Pháp và Thụy Điển - chính sự đối nghịch với chính sách ngoại giao truyền thống này đã làm mất lòng các nước chủ nhà và tỏ ra hoàn toàn phản tác dụng. Nỗ lực của Trung Quốc trong việc “kiểm soát câu chuyện” bằng cách thao túng Tổ chức Y tế thế giới chỉ khiến cộng đồng quốc tế mất lòng tin sâu sắc với nước này.

Trong chế độ chuyên chế được cá nhân hóa cao mà Tập Cận Bình đứng đầu, vị trí của chính ông dường như được đảm bảo vào thời điểm này. Nhờ vào sự tích lũy quyền lực có hệ thống, và các chiến dịch chống tham nhũng không giới hạn đã dọn sạch đường, thông qua những phụ tá đáng tin cậy của ông, Tập Cận Bình kiểm soát quân đội riêng của Đảng, PLA; lực lượng bán quân sự Cảnh sát vũ trang nhân dân được sử dụng để trấn áp sự nổi loạn trong nước; và các cơ quan an ninh trong nước. Bộ máy an ninh trong nước không chỉ cung cấp cận vệ cho Tập Cận Bình và các lãnh đạo khác, mà còn giám sát hoạt động truyền thông và hoạt động của các ủy viên trung ương, các sĩ quan cao cấp, và có tầm quan trọng tối cao với Tập Cận Bình, các lãnh đạo đảng đã về hưu như Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ.

COVID-19 đã buộc Tập Cận Bình phải từ bỏ mục tiêu “xã hội khá giả toàn diện”. Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tốn kém được lên kế hoạch vào năm 2021 - các cuộc diễu hành và các sự kiện văn hóa giống như dịp Quốc khánh mà ông đã tổ chức vào năm 2019 - hiện sẽ bị giảm bớt đi, mặc dù Tập Cận Bình sẽ vẫn là ngôi sao. Tuy nhiên, năm 2022 có thể trở thành “năm định mệnh” khi các đối thủ quanh ông có thể kết hợp lại. Tập Cận Bình đã hứng chịu chỉ trích lớn khi ông lên kế hoạch bãi bỏ giới hạn nhiều kỳ của ông trong Đảng và nhà nước. Những chỉ trích này đã im lặng, nhưng không biến mất. Nếu vào thời điểm trước khi Đại hội Đảng lần thứ 20 diễn ra Tập Cận Bình cảm nhận được sự chống đối xuất hiện trong các nhân vật có ảnh hưởng trong đảng, có thể có một vài người trong chính phe của ông, thì ông rất dễ gây ra những chia rẽ hoặc các cuộc khủng hoảng mà chỉ ông mới có thể giải quyết.

Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc cho thấy những xích mích giữa các đảng viên nắm giữ chức vụ cao có thể dẫn đến sự nhiễu loạn chính sách, bất ổn trong nước, và đôi khi là hành vi khiêu khích ngoài biên giới Trung Quốc. Mặc dù không thể chứng mình nguyên nhân và kết quả, chúng ta có thể liên tưởng với cuộc khủng hoảng Kim Môn và Mã Tổ vào năm 1954, Chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, giao tranh ở biên giới Liên Xô năm 1969, có thể cả việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979.

Chính sách đối ngoại Trung Quốc theo truyền thống vốn thận trọng, và những ồn ào ngoại giao luôn phải nhường chỗ cho những giải pháp kín tiếng. Nhưng Tập Cận Bình không phải là một nhà lãnh đạo Trung Quốc theo kiểu truyền thống như vậy. Trái lại, ông đã tiếp tục thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc như một trụ cột cho tính hợp pháp của Đảng. Điều đó có thể gây kích động. Tập Cận Bình dường như đang thực hiện các bước đi khiêu khích để tận dụng việc thế giới đang phân tâm vì đại dịch, cũng như có thể củng cố lý lẽ chính đảng ủng hộ khả năng không thể thiếu của ông. Đe dọa Đài Loan, các hành động gây hấn ở biển Đông, Luật an ninh quốc gia Hong Kong, và các cuộc đụng độ quân sự ở biên giới Ấn Độ - những hành động này nâng chiều hướng của các chính sách đối ngoại của Tập Cận Bình lên các cấp độ nguy hiểm hơn. Với tất cả những tham vọng đó của ông ta, sẽ khiến Trung Quốc cộng sản sụp đổ trong tương lai.

Nếu Trung Quốc sụp đổ và kết thúc sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì điều đó sẽ mở ra một trang sử mới cho thế giới, đặc biệt là với Việt Nam - quốc gia có cùng hệ thống chính trị độc đảng như của Trung Quốc. Mặc dù được coi là có chung ý thức hệ và hệ thống chính trị giống nhau, tuy nhiên, Trung Quốc luôn “cậy lớn hiếp yếu” trong các quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là trên Biển Đông. Năm 1988, Trung Quốc đã cho quân tấn công lính công binh của Việt Nam để chiếm lấy Gạc Ma thuộc Trường Sa. Những năm gần đây, Trung Quốc dùng sức mạnh để đe doạ Việt Nam khai thác hải sản và các tài nguyên dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế của mình. Năm 2017 và 2018, trước sức ép của Trung Quốc, Việt Nam đã phải yêu cầu công ty Repsol rút khỏi Lô 136.3 và 07.3, và Việt Nam đã phải bồi thường hàng tỉ USD cho công ty này khi yêu cầu họ rút khỏi các hoạt động khai thác. Mới đây nhất, Việt Nam đã phải ngưng ý định khai thác mới tại Lô 06.1 cho dù phải trả tiền thuê giàn khoan thăm dò từ tập đoàn Noble.

Tại Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng đã sao chép chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình để tiêu diệt các đối thủ chính trị của mình, nhằm thâu tóm quyền lực. Chính vì vậy, nếu Trung Quốc suy yếu, thì đây sẽ là cơ hội cho người dân Việt Nam yêu cầu đảng cộng sản phải mở rộng không gian tự do, dân chủ, thoát khỏi ảnh hưởng và đe doạ từ Trung Quốc.

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/xi-jinping-will-destroy-china-08202020072616.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét