Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018

Tại sao nghề 'làm đĩ' có đến 23 tên gọi?

Tại sao nghề 'làm đĩ' có đến 23 tên gọi?
28/11/2018 - Tại sao người ta gọi anh là nhà tục học? Anh cảm thấy thế nào khi bị gắn với biệt danh đó? Vì người ta thấy tôi hay nghiên cứu về những thứ tục. Người ta thấy một loạt bài viết kiểu đó ra đời: Sex trong tỳ bà truyện, Sex trong thơ Nguyễn Trãi, luận về bưởi, chuối… Đó là cách mọi người dán nhãn tôi, phân biệt tôi với người khác. Cách gọi ấy cũng đúng thôi. Vì tôi đã nghiên cứu các vấn đề ấy nhiều hơn người khác, và vẫn còn những bài chưa công bố. Ai gọi tôi như vậy là họ đang nói một cách vui vẻ, không có gì hạ thấp tôi. Nếu coi đó là nghề, thì làm đĩ là nghề có nhiều tên gọi nhất của Việt Nam - 23 tên gọi: đĩ, điếm, cave, phò, gái bán hoa, gái làng chơi, bướm đêm, gái gọi, bò lạc... Tại sao thế? Điều đó chính là sự thú vị của đời sống ngôn ngữ và văn hóa.

Sách Vẻ đẹp của yêu tinh do NXB Hội Nhà Văn và Nhã Nam phát hành. 
Khảo luận về nghề "làm đĩ", nhà nghiên cứu Đỗ Anh Vũ cho rằng có 23 cách gọi khác nhau, anh còn nhận ra nhiều chi tiết thú vị trong văn hóa, đời sống xã hội về nghề này. Vẻ đẹp của yêu tinh là một cuốn sách nghiên cứu thú vị khi đi tìm vẻ đẹp của những chủ đề được cho là thô tục, tục tĩu, xấu xí.

Với cách đặt vấn đề táo bạo, Đỗ Anh Vũ đã khảo luận, nghiên cứu văn học, văn hóa, ngôn ngữ một cách nghiêm túc, khoa học. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ chia sẻ về quá trình thực hiện cuốn sách độc đáo này, cũng như những quan điểm về cách dùng ngôn ngữ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Nghiên cứu về những đề tài người khác né tránh

- Tại sao cuốn sách của anh lại đề thể loại là “hỗn luận”?

- Từ khi cuốn sách ra mắt, có khá nhiều người thắc mắc, và lý giải cho tên thể loại. “Hỗn luận” như cước chú cho thể loại. Hỗn ở đây là sự hỗn hợp, có bài ngắn, bài dài; có bài thiên về ngôn ngữ văn chương, bài về tác giả tác phẩm, bài về văn hóa… Nhưng chữ “hỗn” ở đây có phần nghịch dị, không đi theo những lối mòn, hay quá hiền lành. Vì trong sách có khá nhiều bài chạm vào đề tài gai góc, nhạy cảm mà nhiều người tránh bàn đến.

Tôi tin mình vẫn bàn những câu chuyện nghiêm túc về văn hóa, văn học.

- Tại sao anh chọn khảo luận về những chủ đề như chim, bướm, vòm ngực, yêu tinh, vụ hôn... trong văn học?

- Đó là chủ đích của tôi. Khi đặt bút tìm hiểu một vấn đề, tôi muốn viết về đề tài độc đáo, mới lạ. Khi đề tài cuốn hút mình, thì tôi tin nó cũng cuốn hút độc giả. Và tôi đã viết những khảo luận về những chủ đề đó.

Tôi còn rất nhiều bài mà đọc tiêu đề tưởng nó sốc, tuy nhiên chưa đưa vào cuốn sách này, đây chỉ là cuốn đầu tiên.

- Sốc hơn nữa, là những đề tài như thế nào, thưa anh?

- Tôi vẫn có những tiểu luận mà đề tài gây kích thích. Ví dụ bài “Cave luận” hay “Luận về kỹ nữ” chẳng hạn. Tôi khảo về một tầng lớp xã hội đã có từ thời kỳ phong kiến đến giờ, nó đã được cha ông nhìn và đánh giá như thế nào qua bao nhiêu câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ, nó đi vào tác phẩm văn học như thế nào, trong cuộc sống nó được định danh ra sao?

Nếu coi đó là nghề, thì nó là nghề có nhiều tên gọi nhất của Việt Nam - 23 tên gọi: đĩ, điếm, cave, phò, gái bán hoa, gái làng chơi, bướm đêm, gái gọi, bò lạc... Tại sao thế? Điều đó chính là sự thú vị của đời sống ngôn ngữ và văn hóa.

Tôi sẽ còn khảo về sự bài tiết nữa. Nhìn từ góc độ văn hóa, chúng cũng thú vị.

Hoặc, khi khảo về cánh cửa, tôi phát hiện ra nhiều điều thú vị trong ngôn ngữ và văn hóa. Trên cơ thể con người, một loạt cơ quan đều đặt trong lý tưởng về cánh cửa: Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa mình, miệng cũng là cửa… Cánh cửa đi vào một loạt thành ngữ tục ngữ gắn với văn hóa người việt: Môn đăng hộ đối, Vượt vũ môn, Chửa cửa mả, Lách qua khe cửa hẹp…

Khi đi vào nghệ thuật, cửa còn lung linh huyền ảo hơn nữa: “Lòng tôi có đôi lần khép cửa, rồi bên vết thương tôi quỳ, vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia” như ca từ của Trịnh Công Sơn.

Vì sao cánh cửa đi vào đời sống như vậy? Nó thú vị tới mức tôi vẫn còn muốn tìm thêm tư liệu để hoàn thiện bài viết của mình hơn.

- Các bài viết trong sách, mỗi bài tuy chỉ bàn đến một đề tài, nhưng sử dụng rất nhiều tư liệu văn học dân gian và các tác phẩm văn học, văn hóa. Quá trình khảo cứu của anh diễn ra như thế nào?

- Đầu tiên tôi ngồi thiền. Trời cho tôi trí nhớ tốt, tôi có thể nhớ cả nghìn bài thơ, bài hát mà không cần xem tài liệu. Khi đã có ý tưởng viết về vấn đề gì, tôi ngồi nhớ lại những gì mình đã đọc, những câu hay nhất ấn tượng nhất mà mình đã đọc về đề tài này. Nếu cảm thấy dữ liệu chưa đủ thì tra Google.

Sau đó tôi sẽ phân loại tư liệu, chia thành các khu vực khác nhau, từng ấy tư liệu sẽ nói lên những vấn đề gì. Sau đó tôi tìm cấu trúc bài viết, cân nhắc mở, kết như nào làm sao mở phải ấn tượng, kết phải có dư âm. Sau đó mình tìm cách liên kết các khu vực tư liệu lại thành bài viết.

Nếu là các bài ngắn thì tôi thường mất 3 tiếng làm tư liệu và viết. Nhiều bài khảo luận về yêu tinh, sinh thực khí… nó mang tính chất nghiên cứu, mất thời gian.

Để ra cuốn sách này là cực kỳ long đong, bản thảo đã đi qua 10 đơn vị xuất bản. Nhưng không ngờ khi ra mắt thì sách lại được đón nhận. Một cuốn sách phê bình mà được đón nhận như vậy là vui rồi.


Tác giả Đỗ Anh Vũ là cán bộ Viện Ngôn ngữ học, từng làm MC chương trình Câu lạc bộ Thơ trên VTV1 trong 3 năm.

- Anh nghĩ sách phê bình của mình đáp ứng điều gì ở số đông nên mới được đón nhận?

-Tôi nghĩ mình đã lao động thực sự, khoa học và nghiêm túc, sách lại có điểm độc đáo. Một trong những chức năng của văn học là để giải trí, để người đọc cảm thấy vui vẻ, sảng khoái.

Cuốn sách của tôi bên cạnh chức năng vui, nhẹ nhàng, nó cung cấp thêm nhiều dữ liệu kiến thức thông tin về phong tục, văn hóa của người Việt. Tôi có nhiều phát hiện mới của riêng mình. Có lẽ, độc giả cảm thấy những điều đó có lý, thì họ mới ủng hộ mình.

Từ tục mang trầm tích văn hóa

- Sách của anh dù sao cũng bàn tới những chủ đề ít người nói, đôi khi là những thứ bị cho là mất vệ sinh, nhạy cảm trên cơ thể người. Anh có bị phản ứng gì khi bàn về những chủ đề này?

- Tôi chưa bị phản ứng gì. Những từ tục, chúng ta bảo nó tục nhưng nó có thật, nó tồn tại phổ biến trong đời sống dân gian, dân gian vẫn nói, đến thời điểm nào đó người ta mới cho là nó “tục”.

Khi các từ Hán Việt vào, sắc thái tục - thanh mới phân ra. Trước đó, các từ chỉ bộ phận người vẫn là những từ người Việt mình dùng thường xuyên như cơm ăn nước uống. Đó là những từ cực kỳ cơ bản. Chính những từ ấy là yếu tố đầu tiên phân định ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác, để xác lập đây có phải là ngôn ngữ độc lập hay không.

Các nhà ngôn ngữ học, khi phân định một ngôn ngữ có độc lập hay không, ngoài ngữ âm còn căn cứ vào kho từ vựng của nó nữa.

- Anh đánh giá như nào về việc phân chia các từ mà cha ông bao đời vẫn dùng để chỉ bộ phận cơ thể người là từ tục?

- Ngôn ngữ có một quá trình phát triển, đến một giai đoạn nào đấy, sự phân biệt như vậy rất cần thiết. Chính con người cung cấp sắc thái cho ngôn ngữ, tạo nên những khu vực giao tiếp khác nhau.

Nếu nhìn theo con mắt đương đại, những từ chỉ thẳng bộ phận cơ thể người đúng là tục. Nhưng khi thực hiện những bài nghiên cứu như tôi công bố, tôi muốn đi sâu vào văn hóa.

Đằng sau các từ đó nó gắn với ngữ nghĩa, biểu trưng, phong tục tập quán, thói quen, suy nghĩ người Việt, chứ tôi không ủng hộ phải dùng nó, không phải cứ ra đường văng bừa các từ đó cho sướng mồm.

Những từ đó ra đời, tồn tại lâu, nó phải có chỗ để dùng, nếu không nó sẽ chết. Khi bất bình, ta phải dùng lời chửi chẳng hạn, khi đó phải văng từ tục. Nhưng khi đứng trước giảng đường, trong cuộc họp, văn bản viết… ta không dùng từ suồng sã, thô tục như thế được.


Cuốn sách khảo về những chủ đề mọi người né tránh, qua đó cho thấy vẻ đẹp, sự phong phú của ngôn ngữ, văn học, văn hóa Việt.

- Tại sao người ta gọi anh là nhà tục học? Anh cảm thấy thế nào khi bị gắn với biệt danh đó?

- Vì người ta thấy tôi hay nghiên cứu về những thứ tục. Người ta thấy một loạt bài viết kiểu đó ra đời: Sex trong tỳ bà truyện, Sex trong thơ Nguyễn Trãi, luận về bưởi, chuối… Đó là cách mọi người dán nhãn tôi, phân biệt tôi với người khác.

Cách gọi ấy cũng đúng thôi. Vì tôi đã nghiên cứu các vấn đề ấy nhiều hơn người khác, và vẫn còn những bài chưa công bố. Ai gọi tôi như vậy là họ đang nói một cách vui vẻ, không có gì hạ thấp tôi.

- Về ngôn ngữ giao tiếp, nhiều người nhận định người Hà Nội xưa ăn nói nhẹ nhàng, thanh lịch, nhưng nay đã trở nên thô tục, xô bồ. Anh nghĩ sao về hiện trạng đó?

- Ở đâu cũng có người này kẻ nọ. Người Hà Nội gốc vẫn thanh lịch, ăn nói nhẹ nhàng, đi lại khoan thai, từ tốn, tình cảm. Hà Nội ngày nay là nơi có sức hút, là tập hợp của nhiều cá nhân ở các tỉnh thành. Thời 4.0 lại phát triển chóng mặt, người trẻ có nhiều cách nói bậy, nói tục xô bồ hơn, cách viết tắt để chửi tục cực kỳ nhiều. Đó là hiện thực của xã hội.

Nhưng nhiều người vẫn xác lập được sự phân biệt, lúc nào cần phải nói gì, nói ở đâu cho phù hợp.

Ngôn ngữ là sinh thể vận động theo quy luật riêng của nó.

- Vậy tình trạng nói tục chửi bậy hiện nay có đáng báo động, cần những biện pháp ngăn ngừa?

- Chúng ta không thể kiểm soát được việc sử dụng ngôn ngữ của thanh niên và mọi người. Ai cũng có tài khoản mạng xã hội, tự do nói điều mình thích, làm gì có chế tài nào kiểm soát được.

Nhưng những giá trị về mặt đạo đức, văn hóa vẫn là điều bền vững, nó nằm ẩn sâu đâu đó dưới cái nền của đời sống chúng ta, nó có từ muôn đời nay rồi. Rất nhiều người có lối sống lành mạnh tích cực. Tôi nghĩ nó sẽ là những thế lực giằng co nhau. Chúng ta vẫn phải tin vào những điều tốt đẹp.

Từng người đến giai đoạn khác nhau trong cuộc đời có nhận thức khác nhau. Ta không nên quá lo lắng về việc ngôn ngữ sẽ đi về đâu, ngôn ngữ có quy luật của riêng nó.

Những từ tục nó đã ra đời, tồn tại, chắc chắn nó có chỗ dùng, quan trọng là phải dùng trong môi trường hợp lý thì mới phát huy được giá trị của nó. Nó là trầm tích văn hóa của người Việt.

Đỗ Thu Hiền (thực hiện)
https://news.zing.vn/tai-sao-nghe-lam-di-co-den-23-ten-goi-post895925.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét