Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Thể chế sinh ra thói hư tật xấu của người Việt

Không phải người ta không biết mình xấu đi, song bởi lẽ quá bất lực trong việc chống lại định mệnh, đành chịu đầu hàng. Những năm 80, mình không thể hiểu nổi tại sao Nhà nước VN ra đưa lao động sang các nước XHCN làm việc, nhưng không có cơ chế để họ chuyển tiền về nước (vì các đồng tiền tại các nước đó đều chưa chuyển đổi quốc tế được - non convertible internationally), thế là sinh ra chuyện phải tranh nhau mua hàng, đóng container gửi về nước. Cơ chế đã sinh ra muôn vàn nỗi khổ và muôn vàn tật xấu. Đau lòng nhất là để được giúp đỡ (có nơi ăn  chốn ở khi sang tỉnh khác mua hàng, có người đóng container hộ...) các cô gái xuất khẩu lao động đều phải cặp bồ với đàn ông; chuyện hạnh phúc của nhiều gia đình tan vỡ từ đây...
Thói hư tật xấu người Việt: Sống trong ghen ghét đố kỵ
(Thethaovanhoa.vn) - Mấy năm 1986 – 1989, tôi cùng hàng chục vạn người Việt làm việc ở Nga. Chúng tôi được trả lương bằng đồng rúp. Nhưng không thể mang tiền về tiêu ở Hà Nội. Để giúp đỡ gia đình, cách duy nhất chúng tôi có thể làm là kéo nhau đi mua hàng. Hàng ngày, những cái đầu đen tỏa ra khắp các cửa hàng Moskva. Các thứ máy khâu, bàn là, bếp điện, vòng bi… trở thành những cái đích tuyệt vời để chúng tôi theo đuổi, chiếm lĩnh.
Mà thời ấy, khốn khổ nước Nga cũng thiếu hàng trầm trọng. Chỗ nào cũng xếp hàng. Vèo một cái hàng đã hết. Có người mua được, người không. May mắn của mình nghĩa là bất hạnh của kẻ khác. Giữa những người Việt cùng đi mua hàng, tự nhiên hình thành một sự thù ghét.

Khi mới sang, bắt gặp một đám người mình đánh hàng, tôi còn lớ ngớ nhờ họ chỉ dẫn. Sau vài lần hỏi mãi mà chỉ nhận được câu trả lời lăng nhăng, tôi hiểu rằng, nếu mình cũng đến mua thì họ hết nguồn. Hẳn họ không thích thú gì trước sự có mặt của kẻ khác. Đối diện với bản thân, tôi nhận ra chính mình cũng đã có cái tâm lý tương tự. Nguyên tắc “không ai bảo ai” được toàn thể mọi người tự nguyện thực hiện. Nhiều khi nhìn nhau ở xa đã thấy ngán ngẩm.

Quay về “ốp” – nơi ở tập thể - nhìn những cộng đồng dân cư khác thấy thèm. Cả người những nước nghèo hơn mình như người Lào, người Triều Tiên… sao họ có thể thương yêu nhau hơn người mình.

Còn người Việt thì chỉ thấy đồng bào là những kẻ cạnh tranh, là kẻ mua mất thứ hàng mình có thể mua, tóm lại là một đối tượng để ghanh ghét.

Chúng tôi thấy xấu hổ về cách sống, cách nghĩ ấy, nhưng cuộc sinh tồn đòi hỏi, trước sau đâu vẫn đóng đấy, và chỉ đành nhủ thầm đây đã là thứ di truyền trong máu mất rồi, không ai bỏ nổi.

Ở đâu con người cũng nói: “Đời là một cuộc đấu tranh”.

Ngoài đấu tranh với thiên nhiên, cái triết lý đấu tranh nói ở đây thường được hiểu là đấu tranh với những đồng loại và cuộc đấu tranh này được biểu hiện với vô vàn sắc thái kỳ lạ.

Trong con mắt Bá Dương, “bất kể ở chân trời góc bể nào, hễ có người Trung Quốc là có cấu xé lẫn nhau”. Để tồn lại, họ phải thường xuyên tự nhủ lúc nào cũng có người hại mình. Lý Tôn Ngô tổng kết lịch sử cho rằng những người thành công đều là những người mặt dày, tim đen. Mặt dày là hoàn toàn vô lương tâm, tim đen là tuyệt đối tàn nhẫn.

Không hoành tráng lắm, song ở người Việt, cuộc đấu tranh này lại hiện ra với vẻ dai dẳng và rộng khắp. Theo Edmond Nordemann: “Cuộc đấu tranh vì sự sống, mặc dầu đã được vẻ thờ ơ của phương Đông làm dịu bớt, vẫn mang tính chất khốc liệt hơn tất cả mọi nơi khác.” (Quảng tập viêm văn – tài liệu đã dẫn ở một bài trước).

Cho đến thời đương đại, nhận xét này vẫn còn ý nghĩa của nó. Nam Cao viết rằng hạnh phúc là một cái chăn quá hẹp. Nói thế vẫn là quá hiền. Hạnh phúc có nhiều nghĩa mà nghĩa đầu tiên, đơn giản nhất là sự tồn tại. Sống sót mới là động cơ đánh thức nỗi niềm yêu ghét ghê ghớm của con người.

Trong Những bước đường tư tưởng của tôi, Xuân Diệu kể lại một lần khoảng 1942, theo xe lửa dừng lại ở một vùng đói Quảng Bình, ông chứng kiến cái cảnh đứa bé ba tuổi giậm chân bắt đền người mẹ: “Nhả ra! Trả đây!”.

Thì ra, người mẹ lúc cho con ăn, đói quá, không tự chủ được, trót ăn mất của con mấy thìa cơm. Mà đứa trẻ biết, nó la hét như thế hàng mười lăm hai mươi phút.

Lúc bấy giờ, ám ảnh tồn tại đã thắng mọi thứ tình cảm nhân bản khác.

Tạ sao có hiện tượng trên? Từ Darwin đến Freud, các nhà tư tưởng vĩ đại đều đã xác định: Đấu tranh trong loài là khốc liệt nhất.

Nhà nghiên cứu Trần Đình Hựu từng dẫn lại một nhận xét mà ông cho là cực kỳ thông minh của Hàn Phi Tử: “Người muốn giết vua nhất là hoàng hậu và thái tử”.

Có điều lâu nay trong xã hội Việt, chúng ta quen sống bằng một ảo tưởng ngược lại. Toát lên qua ca dao, tục ngữ, là cái huyền thoại người nghèo thường biết đùm bọc nhau, chỉ có kẻ giàu mới ác, có khi càng nghèo càng ác.

Tại sao? Theo các nhà xã hội học, ở đâu nghèo về vật chất, ở đó cũng có sự nghèo hèn về tinh thần, và đặc điểm chính của người nghèo là dễ bị tổn thương.

Nghèo ở đây còn có nghĩa là không có khả năng thay đổi đời mình. Trong một xã hội tiểu nông, cái mà mọi người đều biết làm thì luôn luôn thừa. Cái mà mọi người cùng cần thì luôn luôn thiếu. Hàng thịt nguýt hàng cá. Hai gái lấy một chồng. Bởi chúng ta quá giống nhau nên xảy ra tình trạng như vậy.

Vương Trí Nhàn
http://thethaovanhoa.vn/dien-dan-van-hoa/thoi-hu-tat-xau-nguoi-viet-song-trong-ghen-ghet-do-ky-n20131225092403608.htm

Thói hư tật xấu người Việt: Tốt đấy, xấu đấy
(Thethaovanhoa.vn) - Không ở đâu chất sang trọng cao quý của người Việt được trình ra như trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). Bằng một giọng điệu từ tốn chậm rãi, tác giả như muốn vẽ ra một hình ảnh mỗi cá nhân trong thế ổn định và chất lượng sống thì đã ngưng kết lại trong thời gian. Người ta có một đời sống tinh thần cao cả thâm nghiêm. Người ta biết vượt lên trên cái tầm thường hàng ngày để theo đuổi những giá trị trường tồn. Và người ta có một mỹ cảm tinh tế thanh cao.

Một thiên truyện như Ngôi mả cũ cho thấy, cái chất quý phái kia đồng nghĩa với sự nhẫn nại hi sinh. Trong sự vô cảm của cuộc đời, con người thừa hiểu rằng chỉ mình biết cho giá trị của mình, và vẫn kiên trì cái lý tưởng sống bằng ấp ủ.

Nhưng trong tập sách đậm chất văn hóa này của Nguyễn Tuân, cũng có những truyện như lạc hẳn đi, đúng hơn là ngẫu nhiên chạm phải một cái gì ẩn sâu bên trong đời sống mà văn chương chưa động tới. TrongNhững chiếc ấm đất, nhân vật chính cũng có máu quý tộc. Nhưng cái chất đó phập phù và tạm bợ. Trong hoàn cảnh bình thường thì không sao. Đến khi gặp cảnh ly loạn thì tất cả đổ vỡ. Ông lão lịch lãm chơi những cái ấm tàu hôm qua, trong khi thất cơ lơ vận, rút cuộc hiện ra như một tay lưu manh, láu cá, nói dối không biết ngượng, sẵn sàng bắt chẹt người khác, kiếm mấy hào vặt.


Ít ra, qua đây cũng có thể kết luận những nét tính cách tưởng như đã cố kết ở người Việt hóa ra thiếu bền vững. Nó hời hợt và được sử dụng để trình diễn nhiều hơn là một trạng thái thực. Người ta không tỏ ra chắc chắn trong lòng tốt và ý định hướng thiện của mình. Những cái tốt đẹp mong manh và dễ bị đánh mất tuy không bao giờ mất hẳn.

Theo nhà sử học Nguyễn Văn Kiệm (trong cuốn Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam, H.2003), khi nhận xét về tính cách người Việt, các giáo sĩ nước ngoài thường lặp lại một khái quát, đó là tính không kiên định (inconstant) và hời hợt (léger). Có thể hiểu điều này rõ hơn, nếu liên hệ với một nhận xét khác: “Bản chất người dân xứ Đàng ngoài khá thật thà mặc dù đôi khi họ cũng phải nói dối một cách khéo léo khi cần phải cảnh giác… Họ cũng hào hiệp, song sự hào hiệp đó thường được hướng về lợi ích cho mình và khi cảm thấy không có gì để hi vọng, họ cũng chẳng sẵn sàng ban phát; trong những trường hợp như vậy, họ thường rất kín đáo về của cải của mình để khỏi bị quấy rầy. Nói chung họ rất dũng cảm, siêng năng, khéo léo, rất hào phóng trong những vụ chi tiêu vì danh vọng như trong các dám cưới, đám ma, các ngày lễ, các đám ăn hỏi”.

Tạm tóm tắt thành ba điểm:

1/ Con người nơi đây có cả cái tốt lẫn cái xấu, vừa cởi mở lịch thiệp, vừa khép kín, vừa ki bo bủn xỉn, vừa thật thà vừa dối trá .

2/ Những nét tính cách này không chắc chắn mà tùy điều kiện mà bộc lộ, và có thể chắc chắn người ta chỉ tốt khi thấy có lợi.

3/ Xét tổng thể, nói chung cái xấu có xu hướng lấn lướt, trở thành ấn tượng cuối cùng từ nhiều người.

Dưới ánh sáng của nhận xét tổng quát này, thì trường hợp như con người trong Những chiếc ấm đất của Nguyễn Tuân trở thành dễ hiểu.

Lâu nay trong các tài liệu nói về người Việt, các nhà quan sát thường khi rơi vào tình thế mâu thuẫn. Người này bảo người Việt chăm chỉ, người khác bảo họ lười biếng; người này khen họ thật thà, người khác ngán ngẩm vì thấy họ tinh ma quỷ quái; người này ghi nhận cái sự hồ hởi, dễ tin ngời lên trên nét mặt đám đông; người khác thấy cái nhìn hoài nghi dường như ăn vào máu bất cứ ai mình đã gặp.

Hóa ra những đặc tính đó đều tồn tại, tất cả chung sống với nhau thành một thứ hỗn độn, tùy từng lúc, tùy từng hoàn cảnh mặt này hay mặt kia nổi lên, và bởi lẽ trong trường kỳ lịch sử hoàn cảnh sống quá khó khăn mà ước ao của con người thì quá lớn, nên cái tốt thường trở thành của xa xỉ dễ bị xếp xó, còn cái xấu như một thứ cỏ dại mọc lan ra và không dễ gì diệt nổi.

Không phải người ta không biết mình xấu đi, song bởi lẽ quá bất lực trong việc chống lại định mệnh, đành chịu đầu hàng. Trong nỗi khao khát tự khẳng định, con người lương tri vẫn tìm mọi cách để tiến bộ. Biện hộ cách nào? Bằng cách nhớ lại rằng mình đã có lúc mơ mộng lắm, tốt đẹp lắm. Người độc ác nhớ lại rằng, lúc nhỏ mình cũng đã nghĩ thương người như thể thương thân; người dối trá nghĩ rằng mình vốn được cha mẹ dạy bảo khôn ngoan chẳng lọ thật thà; người đâm đầu vào cuộc kiếm chác mưu cầu danh lợi đinh ninh rằng xưa nay mình vẫn hay bảo là không gì bằng cái tâm. Cứ thế, những cái tốt giương lên như khẩu hiệu, được biến thành nơi nương náu cho sự hư hỏng. Và rút cục là cái cách sống thường trực nói một đằng, nghĩ một nẻo, “nói zậy mà không phải zậy” ngày một lây lan.

Nói theo tâm lý học hiện đại, trong con người thường xuyên có sự phân thân, một người mà có rất nhiều khuôn mặt cùng lúc tồn tại, mỗi người là một thực thể lung linh mời gọi khám phá.
Vương Trí Nhàn

20-03-2012

Thói hư tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán

Lời dẫn
Cuối 2011, có tin trong cuộc thi tay nghề quốc tế World Skills 2011 ở Anh, tổ chức ở khu Excell, phía Đông London, Việt Nam không đoạt được huy chương nào mà chỉ đem về 7 chứng chỉ ở các môn Công nghệ may thời trang, Nấu ăn, Lắp cáp mạng thông tin, Điện tử, Xây gạch, Công nghệ thông tin và Thiết kế trang web. Con số quả là rất nhỏ trên tổng số 950 chứng chỉ cấp cho 50 quốc gia tham dự.
Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số ra 11-3-2012 có bài  của  một quan chức  của cơ quan phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc. Ông này nhận xét đại ý là lao động Việt  thường ít nghĩ đường dài, cố cầy kiếm tiền hơn lo học hỏi để làm ăn lâu dài.
     Những tin tức loại này ngày càng được đưa ra trên báo chí. Chúng cho thấy điều mà người mình thường tự hào là giỏi giang chăm chỉ cần mẫn khéo tay cần phải xem lại. Nếu không phải là một huyền thoại, nghĩa là một điều ta tự lừa ta,  thì đó cũng là một phẩm chất không có gì chắc chắn, người ta rất dễ đánh mất.
    Đằng sau cái vẻ bề ngoài cố sống cố chết mang hết năng lực ra kiếm sống, thực ra con người vẫn chỉ dừng lại ở một quan niệm thô thiển về sự làm việc và cuộc sống nói chung.
     Dưới đây là những nhận xét tương tự về sự làm ăn buôn bán sản xuất kinh doanh của người Việt từ các bài viết của các trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi chúng ta chuyển mình theo hướng hiện đại hóa lần thứ nhất.
     Mấy năm trước chúng tôi đã có dịp sưu tầm và đưa ra rải rác các nhận xét này trên mặt báo, nay dồn cả lại thành một cụm kính trình bạn đọc.
    Điều cần nói thêm là từ những kém cỏi trong làm ăn buôn bán, nhiều nét tiêu cực trong cách sống cách nghĩ của người Việt đã được hình thành. Suy nghĩ nông nổi. Lừa lọc dối trá. Mua tranh bán cướp. Làm hàng giả…
    Và chúng cũng lan sang cả mối quan hệ giữa người và người giữa cá nhân và xã hội.
     Nhìn vào các lĩnh vực khác như học hành thi cử cầu cúng tín ngưỡng, văn hóa giáo dục, quản lý xã hội nói chung …đâu đâu ta cũng thấy đời sống kinh tế lạc hậu đã kéo thấp con người xuống, và đến lượt nó, sự hạn chế trong đời sống tinh thần lại quay lại làm cho sự sản xuất làm ăn không bao giờ phát triển lên được.

Thiếu cái gan làm giàu
   Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất là vì người ta tiên liệu đại lợi (3), kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước mắt có lợi mới chịu làm.
    Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng bông (4) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy; chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít (..) còn lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.
   Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
(1) buôn bán lớn
(2) bỏ tiền của ra sử dụng
(3) tính trước rằng sẽ lãi lớn
 (4) Đại Nam quốc âm tự vị ghi nghĩa đen, chỉ hàng hoa quả bông trái ; nhưng ở đây có nghĩa rộng hơn chỉ việc buôn bán cò con, buôn đầu chợ bán cuối chợ.
                                                                          Lương Dũ Thúc
 Nông cổ mín đàm 1901
Không lo xa, dễ thoả mãn
     Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.
      Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (...) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí (1) là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế (2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bởi làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi; cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở trở lại. Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời, sanh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.

(1)     khá giả một tí
(2)     làm le, làm dáng, khoe mẽ
(3)     bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa bọn khác kẻ khác
 Lương Dũ Thúc,
Nông cổ mín đàm, 1902

  Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá
     Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam, Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một người Chệt kia lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận thì lấy trong cái tiền lời ấy, chớ không khi nào đụng tới vốn bao giờ. Họ tính như 1đ00 mà làm lợi ra 0đ30, dầu có gian, chủ có hay, cũng dám nhắm mà cho gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ gốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ đã phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0đ50 cũng gian, 0đ30 cũng gian, làm sao mà không háp tiệm (3).
         Chuyện gì hồi lãnh coi công việc thì bần hàn ăn mắm muối, vợ rách con đói; chừng lãnh việc rồi, vợ đeo vòng con đeo vàng, chồng giày vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng trai gái đào đĩ, sắm giường sắm mùng riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ (5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy.

(1)     Chệt (có khi viết Chiệc): người Tàu; Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ; còn Tây và Nam, tức người phương Tây và người Việt
(2)                       ví dụ
(3)                       háp, nghĩa gốc là khô héo, háp tiệm đại ý cũng như sập tiệm
(4)                       liên tục, dồn dập
(5)               Chi họ, dòng họ
Trần Chánh Chiếu
 Lục tỉnh tân văn, 1908

Không biết chấn hưng thực nghiệp (1) 
    Người nước ta xưa nay chia ra bốn nghề sĩ nông công thương... Phàm những kẻ biết đôi chút từ chương là đã vênh vang tự cho mình là kẻ sĩ, không thèm đứng cùng hàng với nông công thương, cho họ là hèn hạ, gọi là dân buôn, dân thợ, dân cùng. Sĩ đã không biết việc nông công thương, mà nông công thương phần nhiều không học hành, không biết nông học là gì, công nghiệp là gì, địa lý là gì. Trăm môn chẳng biết môn nào, thực nghiệp mới không chấn hưng được.
      Ở các cửa khẩu thông thương, trăm người không ai không mặc vải Tây, mà vải Tây là lấy bông sợi của ta dệt ra (...) Các nhà buôn học thức nông cạn, người ta mang hàng đến mà mình không biết chở hàng đi (2). Nhà buôn trong nước rất tản mạn, chèn ép lẫn nhau, không có chủ trương nhất định...

(1) thực nghiệp là từ chỉ chung các ngành sản xuất vật chất, bao gồm cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp
(2) chỉ lo nhập khẩu không biết xuất khẩu
Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục ,1907

Đồng tiền không dùng để sinh lợi
     Tiền của tức là máu mỡ của dân. Tôi không nói là không nên yêu tiếc. Nhưng yêu tiếc thì phải bảo vệ nó làm cho nó sinh sôi nẩy nở. Muốn vậy phải có cách để biến nó thành một món to, không phải chỉ một món nhỏ. Như thế mới gọi là yêu tiếc.
   Thế nhưng người nước ta yêu tiếc tiền của riêng thì lại chỉ để tiền của cung phụng cho cái mồm cái bụng riêng của mình, chứ không biết đến có việc gì khác, đó là một. Có kẻ lại bới đất đào lỗ để chôn giấu của cải, chỉ sợ người khác biết, chôn lâu đến hỏng nát, đó là hai. Cả hai hạng người này một bên thì xa xỉ, một bên thì keo kiệt, tuy không giống nhau, nhưng đều ngu như nhau.
 Phan Bội Châu
 Việt Nam quốc sử khảo, 1908

Những người thợ bất đắc dĩ
     Tính người mình không biết quý trọng công nghệ, người làm nghề  tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà  làm nghề  thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền  được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì  người có học thức không chịu làm, người chịu làm  thì lại là người không có học thức, chẳng  qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa  chớ không  nghĩ được cách thức nào mới.
    Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động, thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều, và cũng đã có người  sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn bán. Song cái tính khinh đường công nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có, song vẫn tự coi mình là đê tiện, phải mượn cái phấn ông hàn ông bá  mới là vẻ vang.
                                                                                           Phan Kế Bính
                                                                                Việt nam phong tục, 1915

Buôn bán lòng vòng trong phạm vi  hẹp
    Xét ra việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính, không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Ví dụ có đi chăng nữa,  thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây; xuôi Nam Định đã cho là xa xôi; ai bần cùng lắm mới lên đến  Lao Cai, Yên Bái  hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những  nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối, bán quẩn buôn quanh.
    Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu (1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn  một chút hoặc hơi vấp váp điều gì  thì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc  có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa.

(1) tức có kết quả
                                                                               
Phan Kế Bính                   
                                                                                           Việt nam phong tục, 1915

 Không có nghề nào đạt tới
trình độ chuyên nghiệp
     Phần nhiều người nước ta chỉ nô nức về đường công danh sĩ hoạn, mà coi nghề buôn bán là một nghề khinh thường. Người giàu có cho con đi học mong cho con về sau nhất ra thì làm nên ông nghè ông bảng, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác lái này ông lái nọ. Người làm quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm lan tốt, chè chuyên thuốc quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết gì ông chủ cửa hàng nọ ông quản lý cửa hiệu kia. Mà đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn làm thú trên đời, còn việc buôn bán thây mẹ đĩ.
     Té ra bao nhiêu ông việc buôn bán phần nhiều  ở trong tay người đàn bà  và ở trong bọn mấy chú lái  thì mong sao mở mang ra to được ?!                                                                                                                      
    Lại như việc chữa bệnh, xưa kia nước ta không biết trọng nghề làm thuốc, thường cho là một nghề nhỏ mọn, không mấy người lưu tâm. Chốn dân gian chỉ những người bất đắc chí trong đường khoa cử  mới xoay ra xem sách thuốc để lấy nghề sinh nhai. Phần nhiều là những người thiển học (1), rồi cũng dám lên mặt ông lang đi khắp chợ cùng quê để chữa bệnh cho thiên hạ. Mạch thấy nắm cũng nắm,  mà có hiểu thế nào là mạch thực mạch hư; bệnh thấy xem cũng xem, mà có hiểu thế nào là bệnh hàn bệnh nhiệt. Đệm thêm một nắm lá xì xằng cho gói thuốc to, để lấy cho đáng đồng tiền của người ta. Cũng may dân ta phần nhiều còn dại dột, sống chết đổ cho tại số, chớ không  thì các ông lang  ấy chắc không ăn ngon ngủ yên.

(1) sức học nông cạn
                                                                                                                      Phan Kế Bính
Việt nam phong tục, 1915
Không chịu học buôn học bán
     Nói đến cuộc thương mại nước nhà mà thêm chán. Bất quá trong nước được vài nhà buôn, còn thử đi qua các phố mà xem, chỉ những Chiệc với Chà (1) họ chiếm mất cả. Buôn bán với các nước, lại càng chẳng có ai gọi là tay đại doanh nghiệp.
     Vì cớ từ xưa đến nay, đàn ông ở ta chỉ lo học hành thơ phú ngâm nga, hi vọng làm quan, chứ buôn bán cho là mạt nghệ.
      Hai nữa là từ xưa không có học làm các sổ sách buôn bán, không có một trường nào dạy buôn bán như ở nước Tàu cũng như các nước bên Âu Mỹ.
       Nhẽ thứ ba, ta có buôn chỉ buôn quanh bán quẩn với nhau, không thực thà không đồng tâm, không thạo việc, không biết cách đối đãi với khách mua hàng.
     Vả lại bây giờ nước ta không giữ cái chủ nghĩa bế quan nữa, cửa ải đã mở rộng, nhưng mà cuộc thương mại với các nước ở tay ai chứ có ở trong tay mình đâu, mà dẫu có để cho mình cũng vị tất có đủ tài sức mà gánh vác.

(1)     người Trung Hoa và người Ấn Độ
 Lê Đức Mậu
 Bàn về thương nghiệp, Hữu thanh, 1921

  Khéo tay mà trí không khôn  
     Xét ra ở nước Nam ta  mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với các nước;
     nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa có thể thống gì,  chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các phương pháp;
     thợ thuyền  phần nhiều là những người vô học, phi quen tay phóng lại lối cũ, thời  bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn  giữ được tinh thần cốt cách cũ, tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mới;
     nóí tóm lại là không có trí sáng khởi (1)  khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề  một cái thể thức trang nghiêm mà đặc biệt.
      Cho nên các nhà nghề ta, không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho  có cái trí khôn nưã.
      Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức,  thời  không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ,  sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2),  để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học  cho biết nghề mình duyên cách (3)  thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy mà  giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biến đổi dần.  
(1) bắt đầu dựng lên
(2) quan hệ của những cái liên tiếp. Cũng nghĩa như  hệ thống
(3) duyên  ( có khi đọc diên ) ở đây  là thủ cựu, cách là đổi mới.Duyên cách  : Tình hình cũ và mới   

                                                                                     Phạm Quỳnh
                                                                                Pháp du hành trình nhật ký 1922

Không ai chuyên nhất việc gì

    Các nước phú cường, người nào làm việc gì thì chuyên việc ấy. Nhà khoa học lo cả đời phát minh; người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc; trong khi làm bàu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu  sang Pháp làm chính  trị.
   Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn nại.

Tân Việt (*)
Mỗi người một việc – Đông Pháp thời báo, 1928(*)Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi  ký chung trênĐông Pháp thời báo 1928 ( theo Lại Nguyên Ân ). Nghe giọng  thì người viết ở đây  có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?).


Làm hàng bán hàng đều kém 
   Nước ta  khi xưa chỉ có những  tiểu công nghệ  như quay tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới,  làm mắm muối v..v.. chứ không có  đại công nghiệp để làm giàu như các nước khác.. Người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì  thì lập thành phường, như thợ mộc thợ nề  thợ rèn thợ đúc đồ gốm v..v.. Phường nào có tục lệ riêng của phường ấy. Những người làm nghề thợ thường là người ít học, quanh  năm ngày tháng đi làm  thuê làm mướn chỉ  được đủ ăn mà thôi.
   Người thiên hạ đi buôn nước này bán nước nọ, xuất cảng nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn  kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu,  chỉ quanh quẩn ở trong nước,  buôn bán những hàng hoá lặt vặt,  thành ra bao nhiêu mối lợi  về tay người ngoài (1) mất cả. Thỉnh thoảng có một ít người  có mươi lăm chíêc  thuyền mành,  chở  hàng từ xứ nọ đến xứ kia, lưng vốn đọ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.

(1)  ám chỉ  Hoa kiều, trước 1945  thường gọi là khách, như trong các từ hiệu khách, phố khách 
                                                                                                        Trần Trọng Kim
                                                                                                    Việt Nam sử lược,1925
Tài trí thua kém
     Nghĩ như nước ta, ruộng đất tốt, rừng núi nhiều, các mỏ có, phận đất duyên hải cũng thật dài, vậy mà cuộc kinh tế mỗi ngày mỗi khó, thời là sao?
     Nói về tài trí, quốc dân ta thứ nhất đã kém về cơ khí cho nên công nghệ phải thua. Vật xấu mà giá bán đắt hơn thời còn mong gì tiêu thụ cho ngoại quốc (1). Ngay trong bản quốc, vẫn phải cần dùng đồ nước ngoài. Bài trừ ngoại hoá chẳng qua là câu chuyện nói chơi, khó thay sự thực. Như ở Nam Kỳ nhà máy xay gạo của người ngoại quốc thì không sao; người nước ta chỉ có một cái nhà máy xay mà cháy. Ở mặt bể, tàu của người ngoại quốc thời không sao, người nước ta có một cái tàu Bình Chuẩn (2) mà chìm. Nghĩ ra cũng là tài trí thua kém.
     Nói về tư bản (3), nguyên người nước ta đã không lấy đâu có được nhiều người có tư bản to ví với người ngoại quốc, mà sự chiêu phần (4) lập hội thời cái bụng ăn ở với nhau kém, cho nên không mấy hội được bền, nghĩ chỗ đó thật đáng buồn, mà có nói lắm cũng vô ích.

(1)      tức không thể xuất khẩu.
(2)     tàu chở hàng trên biển, trọng tải 600 tấn, do công ty Bạch Thái Bưởi khai trương từ 1919.
(3)     của cải vốn liếng
(4)     gọi người mua cổ phần
 Tản Đà
 An Nam tạp chí, 1931
Thời gian phí phạm
cách sống làm điệu làm dáng
    Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng là cơm vua ngày trời, tỏ ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữlàm việc quan là làm việc rồi (1), làm đù đưa đủng đởn.
      Phải, phàm kẻ làm việc quan, không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm đúng đắn làm kịp thời kịp vụ làm chi!
       Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không có đồng hồ. Chẳng những vì khoa học không có mà không làm được đồng hồ. Mà chính vì cái quan niệm cơm vua ngày trời, và làm việc quan ấy nó choán sẵn trong đầu rồi, không có sự cần, nên không sinh ra khoa học mà không làm đồng hồ được.
    Có người đeo cái đồng hồ không chạy. Máy ở trong đã hư hết nhưng mà vì nó đẹp, nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.
     Bỏ cái quan niệm cơm vua ngày trời đi, rồi mới dùng được đồng hồ theo như chỗ dùng của nó.
      Cũng như bỏ cái căn tính cẩu thả đi, rồi mới dùng được những chữ dân quyền tự do bình đẳng theo ý nghĩa của nó. Hiện nay thì những chữ dân quyền, bình đẳng, tự do ở nước ViệtNam cũng còn như cái đồng hồ của người Việt Nam!

(1) rổi ở đây có nghĩa như trong thành ngữ “ăn không ngồi rồi “. Làm rồi: làm rất nhàn nhã, thế nào cũng được

 Phan Khôi
 Cái đồng hồ của người Việt NamPhụ nữ tân văn,1931




 Quan niệm về kinh tế quá cổ lỗ 
      Tư tưởng kinh tế nước ta phần nhiều bị cái triết học của người đời (1) nó đè nén. Sách Đại học (2) có câu “ Đức là gốc mà của là ngọn “, ông Mạnh tử  nói “ nhân nghĩa là đủ, sao cứ nói lợi “. Xưa nay không ai không lấy sự dè sẻn làm chủ nghĩa rất cần, nói đến tài chính không ai không lấy sự “ xem số thu vào để  liệu số chi ra “  làm chủ đích. Sự hơn đong kém bán bị  khinh rẻ, người mưu lợi bị chê bai …
      Bởi đấy nên tư tưởng  kinh tế  phương đông tản tác mà lộn xộn, tư tưởng kinh tế  phương Tây tề chỉnh mà phân minh.
      Tư tưởng đã tản tác mà lộn xộn thì  kết quả không tiến bộ chút nào;  tư tưởng đã tề chỉnh  và phân minh  thì kết quả lại có phần tiến bộ nhiều lắm.  

(1 )  triết học nhân sinh
(2) một trong Tứ thư bốn bộ sách chính của đạo Nho. Ba cuốn kia là Luận ngữ, Trung Dung Mạnh Tử

                                                                               Nguyễn Xuân Dương
                                          Sự so sánh về tư tưởng kinh tế Đông Tây An Nam tạp chí, 1931


Giữa chủ và thợ không tìm được
hình thức cộng  tác thích hợp
   Những nhà nông trồng ra  cây mía, nấu thành muống đường (1).
   Những người làm nên đường cát mà mang đi bán lại là người khác, tức là nhà buôn đường.
    Người có tư bản  xuất vốn ra và làm chủ rồi rủ dăm ba người trai tráng làm  bạn (2), gọi là công –xi, một bên xuất tài (3) một bên xuất lực.
    Mãn mùa rồi tính trừ tiền vốn và tiền tổn ra  còn lãi bao nhiêu chia thành hai,  chủ phần nửa, các bạn phần  nửa.
     Song ở trong có sự rất xấu là những người chủ thường  ăn lấn các bạn. Hạng trai tráng đi làm bạn  phần nhiều là ngu dốt không biết gì, chủ tính trời tính đất chi thì tính,  họ cứ việc dạ, miễn còn dư đôi ba đồng  đem về cho vợ đã là quý rồi.
    Thường thấy những  công-xi làm đường  chủ nhân làm nhà gạch mua đất tư  còn các bạn thì khố một vẫn hoàn khố một.
(1)Tạm hiểu là đường sơ chế 
(2) một cách  gọi những người cộng tác; thực chất   là  thợ
(3) tài ở đây không phải tài năng, mà là tiền của.

                                                   Trích ở bài Nghề làm đường ở Quảng Nam, Quảng Ngãi
                                                                            Thực nghiệp dân báo, 1923

Những cái gia truyền dần dần mất đi
         Xét những thức quà của ta, thật có nhiều thứ ngon, mùi vị rất dồi dào. Là sản phẩm của  đồng ruộng của núi sông, những thứ quà ấy là dấu hiệu sự thưởng thức của người mình, vừa tao nhã lại vừa chân thật. Đó là những vật quý mà sự mát đi, nếu xảy đến, sẽ khiến người sành ăn phải ngậm ngùi.
          Nhưng người mình tham thanh chuộng lạ đã bắt đầu khinh rẻ những thứ đáng yêu ấy, có cái ngon mà họ đã gần quên mất mùi vị.
         Một đằng khác, không ai chịu để ý và hết sức làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn lên, cải cách cho hợp với thời mới.
         Những cái gia truyền dần dần mất đi, những cái khéo léo không còn giữ được …
                                                                                                     Thạch Lam  
                                                                                  Hà Nội băm sáu phố phường, 1940

  Ngủ yên trên danh vọng
      Đi với bánh đậu, còn có các thứ bánh khảo, kẹo lạc, kẹo vừng.
       Ngày trước, hiệu Ngọc Anh có tiếng khắp kẻ chợ thôn quê; nhưng từ  ngày Cự Hương ở tỉnh Đông (1) dồn lên, thì ngôi bá chủ đã thay người.
       Trong khi Cự Hương mỗi ngày một tiến bộ trong cách tìm tòi, khiến cho bột bánh được mềm dẻo, nhân đậu được nhuyễn trong, và cách trình bày được  sạch sẽ tinh tươm  thì Ngọc Anh nằm ngủ trên cái danh vọng cũ của mình, uể oải bán hàng cho khách. Hiệu đó hình như giàu rồi mà lại …
      Mà  phần nhiều giàu rồi thì không hay  cố nữa. Đó là  cái tật chung của người mình  khiến cho không một công cuộc nào phát đạt được lâu dài, cả từ trong cách buôn bán  cho đến những công nghệ khác. 
      Tài làm bánh của người mình không phải là kém cỏi. Cái thứ bánh dẻo Trung thu của Cự Hương không kém gì bánh của Tàu  và các thứ bánh kem của Việt Hưng không  thua gì bánh của Tây.
     Ta chỉ còn thua cái chí nữa mà thôi; nhưng như thế  nghĩa là còn thua  nhiều nhiều lắm.
(1) tức vùng Hải Dương          
                                                                                        Thạch Lam  
                                                                            Hà Nội băm sáu phố phường,1940


Bôi bác, giả dối, chỉ cầu rẻ 
    Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: món quà bán thì cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn cái phẩm có tốt hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất to bột, nặn xuề xoà để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc (2) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
   Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó mà lấy nhiều hoa mắt người ta được.
   Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản.
     Đó là một sự thực giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.

 (2) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.

 Thạch Lam  
 Hà Nội băm sáu phố phường, 1940

Người làm nghề không ngóc đầu  lên được 
    Đời sống nông nghiệp vẫn ràng buộc sức phát triển của công nghệ, mà những người làm nghề ở Việt Nam phần nhiều là nông dân chỉ coi nghề của mình là một nghề phụ để kiếm thêm chứ không trau dồi cho nó ngày một tinh xảo.
     Lại thêm chính những người có nghề muốn giữ nó làm của riêng không muốn truyền dạy cho người ngoài.
     Dụng cụ thường thô sơ và y nguyên kiểu xưa.
     Tài khéo thường bị mai một. Vật liệu để dùng thì cũng vẫn tìm quanh tại chỗ chứ ít khi phải mua tận nơi xa.
    Cách chế tạo cũng chỉ theo phương pháp tổ truyền, không mấy ai chịu thay đổi.

                                                                                                             Lương Đức Thiệp
                                                                                                        Xã hội Việt nam, 1944
Không biết thích ứng
  với xã hội hiện đại 
     Tất cả  các công nghệ cổ truyền  đều chỉ có công cụ thô sơ.
     Chúng không có nhiều cơ hội để phát triển: thợ thủ công Việt Nam quả thật rất khéo léo và sẽ có thể trở thành những thợ mỹ nghệ tuyệt vời  nhưng họ rất thiếu nhìn xa  nên không thể nghĩ đến  việc đặt công nghiệp của  họ trên những cơ sở kinh tế hiện đại.
      Họ sống ngày nào hay ngày ấy  và chẳng có khả năng gì chống chọi với sự cạnh tranh của  các vật dụng hiện đại được sản xuất với số lượng lớn hơn nhiều mà lại  được nâng đỡ bởi một thị hiếu vừa dễ dãi vừa thất thường.
                                                                                                     Nguyễn Văn Huyên
                                                                                  Văn minh Việt Nam,1944

Vương Trí Nhàn là một nhà nghiên cứu văn hóa, văn học và là nhà phê bình văn học của Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã nhận xét về ông:
Trong số những cây bút phê bình lý luận Việt Nam hiện đại, Vương Trí Nhàn là một người từ mấy chục năm nay đã tạo được một giọng điệu riêng khó lẫn. Ông không phải là người tiếp cận thật sâu một vấn đề gì đó và triển khai nó đến tận cùng, mà thường vấn đề gì cũng lướt qua một cách nhẹ nhàng, nhưng lại có những nhận xét khá thâm thúy.[cần dẫn nguồn]
Nhà văn Ngô Thảo, người tự khẳng định rằng mình thân với ông Vương Trí Nhàn, sau khi đọc bài "Tri thức hiện đại: Không được tạo dịch nói xấu người Việt" đã nhận xét Vương Trí Nhàn trong bài "Phải nghiêm cẩn khi bàn đến tính cách của cả dân tộc !" như sau:
"Người ta nói, anh Vương Trí Nhàn từ một nhà phê bình văn học trở thành một nhà nghiên cứu văn hóa. Tôi rất nghi ngờ tính khoa học những loạt bài đó."
"Anh Nhàn là người ham học hỏi, đọc rất nhiều, nhưng cái kiến thức và cái tư tưởng của anh Nhàn, tôi rất nghi ngờ. Đó là khoảng cách của một người chủ trương phê phán thị trường, nhưng chính mình lại chìm ngập trong thị trường"
"Nói ngay như trong cái Hội Nhà văn bé tý, có rất nhiều người dù đã quá tuổi về hưu, lẽ ra phải về để nhường chỗ cho lớp trẻ, thế nhưng vẫn cứ tha thiết xin ở lại, bấu víu lấy nó... Ông Nhàn vẫn tha thiết xin ở lại Nhà Xuất bản. Vì nếu không ở lại, không ai cho ông ấy giới thiệu sách cả."
Tuy nhiên do bị sự phản đối chê cười của dư luận, bài báo của ông Thảo đã phải gỡ xuống và bài phỏng vấn của Sơn Khê với Vương Trí Nhàn "Tri thức hiện đại: Không được tạo “dịch nói xấu người Việt”" cũng đã bị xóa trống trơn sau có mấy ngày mà không có lời giải thích lý do.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét