Hội nghị Thành Đô – Mở đầu một giai đoạn bất bình thường mới trong quan hệ Việt Trung
Bao giờ quan hệ Việt – Trung mới được bình thường hóa một cách thực sự?
Chắc có người sẽ ngạc nhiên trước câu hỏi này vì cho rằng quan hệ
Việt – Trung đã được bình thường hóa vào năm 1990 với Hội nghị Thành Đô
lịch sử. (*)
Nhưng tôi tin cũng có nhiều người khác không nghĩ thế.
Những nguyên tắc chung cho một mối
quan hệ được gọi là bình thường giữa hai quốc gia là tôn trọng độc lập,
chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi. Thế thôi là đủ. Nếu vượt quá chỉ tiêu này, ví dụ
như thêm các mỹ từ như “đặc biệt”, “anh em”, “đoàn kết” để “cùng tiến
lên” cái gì đó hay thêm chữ này chữ nọ thì đó là những dấu hiệu của
những mối quan hệ bất bình thường giữa các quốc gia
Những nhân tố bất bình thường biểu hiện qua những mỹ từ như vậy
sẽ tiềm ẩn những nguy cơ lấn át và xâm phạm những nguyên tắc bình
thường trong mối quan hệ bình thường giữa các quốc gia . Lịch sử đã
chứng minh điều đó trong mối “quan hệ anh em” giữa các nước XHCN thuộc
khối Đông Âu ngày xưa. Đã là “quan hệ anh em” thì tất phải có nước
anh, nước em, và sẽ có lúc nước anh mang quân sang một nước em nào đó
để trị thằng em có biểu hiện không nghe lời hoặc để giúp thằng em là
chính phủ nước em đó đàn áp chính nhân dân nước em (ví dụ như sự kiện
Hungary năm 1956 hay Tiệp Khắc năm 1968). Và trong những trường hợp này,
nguyên tắc “anh em” bất bình thường đã lấn át nguyên tắc bình thường
trong quan hệ giữa các nước là “tôn trọng độc lập chủ quyền, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.
Trong mối quan hệ đó, cũng không phải lúc nào các nước đàn em
cũng khuất phục. Thân nhau lắm lúc này lại có thể cắn nhau rất đau lúc
khác. Ví dụ điển hình của sự không khuất phục này là sự bất phục tùng
“anh cả” Liên Sô của “anh hai” Trung Quốc trong những năm 50 – 60 của
thế kỷ trước. Một ví dụ khác nữa là sự không chịu nổi của nước Albanie
XHCN bé tí xíu trước sự lấn át, bắt nạt của các ông anh - lúc thì thân
nhau như anh em một nhà với Nam Tư, lúc bị ông anh XHCN láng giềng Nam
Tư bắt nạt thì dựa vào Liên Sô để tố cáo Nam Tư là “xét lại”, là có tham
vọng xâm lược, rồi lúc bị Liên Sô lấn ép thì ngả theo Trung Quốc để lên
án Liên Sô là “bọn Sa Hoàng mới”, sau cùng thì cũng nghỉ chơi với ông
anh Trung Quốc và dùng những ngôn từ ngoa ngắt và nặng nề nhất để chửi
rủa cả “hai tên đế quốc xã hội đầu sỏ” là Liên Sô và Trung Quốc trước
khi chính thể chế XHCN của Albanie cũng sụp đổ tan tành…
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau Hội nghị Thành Đô cũng đã trở
thành một mối quan hệ vượt mức bình thường với những mỹ từ kèm theo như
“tình hữu nghị giữa hai nước XHCN anh em”, rồi lại còn “16 chữ vàng”…
Những yếu tố bất bình thường này cũng đang là những nhân tố lấn át và có
nguy cơ làm cho những nguyên tắc bình thường giữa hai quốc gia trở
thành thứ yếu và phần thua thiệt tất nhiên bao giờ cũng thuộc về “đàn
em” mà điều xấu nhất nếu xảy ra rất có thể sẽ là “Hoa quân nhập Việt”.
Vì vậy, với một sự kiện sẽ đi vào lịch sử dân tộc như Hội nghị
Thành Đô, thay vì nói đó là Hội nghị bình thường hóa quan hệ Việt –
Trung như cách nói từ trước đến nay thì phải nói rằng đó là sự kiện mở
ra một sự BẤT BÌNH THƯỜNG MỚI trong quan hệ giữa hai nước thì đúng hơn
Còn nhớ trước khi Liên Sô sụp đổ, Gorbachev cũng đã từng gạ gẫm
Trung Quốc “bình thường hóa” quan hệ Sô – Trung như là quan hệ của “2
nước XHCN vĩ đại”. Đặng Tiểu Bình đã rất tỉnh táo thẳng thừng tuyên bố
sẵn sàng bình thường hóa với Liên Sô nhưng chỉ theo những nguyên tắc
thông thường, không đưa vấn đề ý thức hệ “XHCN” vào đó.
Nhưng tại sao Trung Quốc lại đồng ý áp dụng nguyên tắc đó với
Việt Nam. Đó là vì với nguyên tắc ấy, thì nước nhỏ hơn bao giờ cũng ở
thân phận chư hầu đàn em và bị phụ thuộc (điều trớ trêu là Việt Nam lại
chủ động nêu ra “nguyện vọng” này đầu tiên, tự nguyện “chui vào ống tay
áo” của “thằng anh” vừa đểu vừa thâm hiểm là Trung Quốc). Còn nếu cũng
áp dụng nguyên tắc ấy với Liên Sô thì Đặng không muốn vì sợ sẽ đi vào
vết xe đổ của những năm 1950 khi Trung Quốc có thể sẽ lại phải nằm ở vị
thế đàn em, lép vế trước một siêu cường có phần hùng mạnh hơn là Liên Sô
lúc đó.
_____________________________________________________________________________
(*) Đọc thêm:
Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990
Nguyễn Trung *
Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn
thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự
kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp
cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại
nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến
tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối
uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta.
Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào
chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay
sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích
Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ
đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây
Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy
động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công
toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”.
Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến
tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989
mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả
hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được
mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam
đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt
chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến
lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết
liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt
Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu
năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo
nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng
nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ
lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta
đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi
Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho
quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp
cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình
thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ
nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7
đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta
bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện
tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy.
Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không
nhìn ra sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới
cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi
cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước
mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội
này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối
với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị.
Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình
thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có
ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những
mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc
gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta
đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần
như với bất cứ giá nào.
Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam
được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là
thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức
hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt
Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với
cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung
Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác
mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can
thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên
lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt.
Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ
hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát
triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình
kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây
Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực
ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng
cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm
Trung Quốc.
Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần
phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ
thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng
hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt –
Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung
Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc
phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung
Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung,
mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất
nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng
thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển.
Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên
Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong
nhân dân.
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn
yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ
quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng
Trung Quốc.
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra
là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào
Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày
nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn
chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống
nhất, đất nước đang lâm nguy.
Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại
trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành
Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía
chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen!
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được
quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam –
Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong
phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc
một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội
nghị Thành Đô 9-1990.
——————————————————————————–
Phụ lục
Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu
Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990
Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011
|
“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày
trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân
tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là
cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố
tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau
khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay
“hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…
…
…
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh(trong khi
đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình
thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại
không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn
ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi
nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho
Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận
quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60
vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều
cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho một
bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung
Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “ViệtNam xâm lược Cămpuchia”… là
đúng, việc thế giới “ lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết,
việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi
chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme
đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho
khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.
…
…
…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc,
khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của
Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc( ngay cả
tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu
nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói
tới, thậm chí bị lãng quên).
…
…
…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính
thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán,
hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về
mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi
về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn
cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc
điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc(tức khoảng 300
triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện
pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của
đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu,
cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như
không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được…
…
…
…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức
vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị,
Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi
cơ hội đế đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí
là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu
tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối
với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh
và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự
ghè chân mình”…
…
…
…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này
luôn cho rằng rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ
lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có
quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là
người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam,
đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá
quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương
quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ
“sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “ vai trò
quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung
Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá
mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta
một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt
Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện,
chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….
…
…
…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ
Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn
hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội
lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam ( lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó
nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh
trực tiếp cho biết)
Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề
…
…
…Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên
mà phải dùng từ “ cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản
chất của vấn đề. “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho
đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu
những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội
nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”
…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh
dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra
những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?
(1)Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không
nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất
là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như
tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã
có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai
lầm.
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường
Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc
bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và
đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta
thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay
những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên,
Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây
muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là
xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Hồi ký
Trần Quang Cơ).
Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó.
Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu T ử Dương bị
cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ
phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ … Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên,
Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế,
quân sự(có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay
vẫn chưa huỷ bỏ)Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá
quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không
đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà
còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý
quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây
giờ và cả trong tương lai nữa.
(2) Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh
đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh”kiên cường, bất
khuất, không sợ địch”mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để
sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho
ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện
cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường
đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn
Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước
đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng,
mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất
mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của Trung
Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao
của đảng ta.
Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân,
một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những
âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí”
luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả
cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tưong
lai….”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét