Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

BÀN VỀ TỶ GIÁ THỰC VÀ MỨC ĐỘ PHÁ GIÁ ĐỒNG TIỀN NƯỚC TA

Bài viết cũ của tôi.
Bản hoàn chỉnh không còn, chỉ còn bản nháp viết dở dang này :


BÀN VỀ TỶ GIÁ THỰC VÀ MỨC ĐỘ
 PHÁ GIÁ ĐỒNG TIỀN NƯỚC TA
                                             
       Từ nhiều năm nay, trong quá trình nền kinh tế nước ta chuyển dịch ngày càng mạnh mẽ sang hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế, vấn đề sử dụng các công cụ quản lý của kinh tế thị trường, đặc biệt là công cụ tỷ giá, được đặt ra và thảo luận rộng rãi trong giới nghiên cứu kinh tế và làm chính sách. Hiện nay, tỷ giá đang nổi lên như là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất của quản lý kinh tế vĩ mô vì nhiều các nhà kinh tế cho rằng đồng tiền Việt nam đang bị lên giá quá cao so với ngoại tệ, do đó cần sớm phá giá mạnh đồng tiền nội địa để khuyến khích xuất khẩu và cân bằng lại hệ thống giá cả. Tuy nhiên, để khảng định kết luận này, cần phải tính tỷ giá thực. Bài viết này sẽ bàn về thực trạng tỷ giá thực và gợi ý một vài khả năng phá giá đồng tiền nước ta.
              1- VỀ KHÁI NIỆM TỶ GIÁ THỰC
Trong nghiên cứu kinh tế, người ta thường sử dụng ba loại tỷ giá chính: Tỷ giá song phương (bilateral exchange rate), tỷ giá đa phương (effective exchange rate) và tỷ giá thực (real exchange rate). Tỷ giá song phương là giá trị một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền của một nước khác, nói cách khác đó là số lượng đơn vị tiền tệ quốc gia cần thiết để mua một đơn vị tiền tệ nước ngoài. Như vậy, tỷ giá song phương thực chất cũng là một giá, song là loại giá đặc biệt vì tỷ giá song phương nối liền mức giá trong nước với giá cả quốc tế và có ảnh hưởng rất lớn tới rất nhiều loại giá sản phẩm cụ thể cũng như toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của đất nước. Chính vì vậy, người ta luôn luôn coi tỷ giá như là loại giá cả quan trọng nhất trong nền kinh tế và chính phủ phải có chính sách riêng đối với tỷ giá.

Tuy nhiên trong thực tiễn quản lý kinh tế, việc sử dụng tỷ giá song phương thường bị phê phán vì nó chỉ phản ánh quan hệ đơn giản giữa đồng tiền quốc gia với một đồng tiền nước ngoài trong khi do quan hệ buôn bán quốc tế đa dạng, một đồng tiền quốc gia bao giờ cũng có nhiều tỷ giá với các loại ngoại tệ khác nhau, ví dụ đồng tiền Việt nam vừa có tỷ giá với đồng đô la Mỹ, vừa có tỷ giá với đồng Euro châu Âu, đồng DM Đức, đồng Franc pháp, đồng Yên nhật... Nếu chỉ sử dụng tỷ giá song phương của đồng tiền Việt nam so với đồng Đô la  Mỹ thì sẽ không phản ánh được quan hệ kinh tế thương mại đa dạng của nước ta với bên ngoài vì đồng tiền Việt nam có thể mất giá so với đồng đô la, làm cho sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta tăng lên, song đồng thời lại lên giá so với đồng Euro và đồng Yên làm cho sức cạnh tranh của hàng nước ta giảm xuống. Khi đó rất khó kết luận biến động tỷ giá đã làm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt nam tăng hay giảm.
Vì vậy, từ những năm 70, các nước trên thế giới thường sử dụng tỷ giá đa phương trong nghiên cứu xây dựng các chính sách kinh tế. Tỷ giá đa phương được tính dưới dạng chỉ số, là trung bình trọng số của các chỉ số tỷ giá song phương quan trọng nhất của nước đó. Trên thực tế, trọng số thường là tỷ trọng của các đồng tiền nước ngoài trong tổng giao dịch ngoại thương của nước đó. Do vậy, nếu các chỉ số tỷ giá song phương của đồng tiền Việt nam so với các ngoại tệ khác là ERi, thì tỷ giá đa phương của đồng tiền việt nam sẽ được tính theo công thức:

     EER = Tổng của (ERi * Si)       hay  EER = Tích của (ERi)               (1) 

(không copy được công thức toán học vào đây nên phải thay bằng lời văn)
  
trong đó  Si là tỷ trọng giá trị đồng tiền nước i được sử dụng trong tổng giá trị giao dịch ngoại thương của nước ta, và Tổng các Si = 1. Trên thực tế, do hạn chế về số liệu, người ta sử dụng cơ cấu xuất nhập khẩu phân theo nước làm tỷ trọng đại diện cho Si. Việc sử dụng tỷ giá đa phương cho phép phân tích chính xác hơn ảnh hưởng của thay đổi từng tỷ giá song phương đối mới mặt bằng giá chung của toàn nền kinh tế.
          Hai loại tỷ giá trên là các tỷ giá danh nghĩa. Khi phá giá danh nghĩa đồng tiền nội địa, sẽ làm tăng giá tính theo nội tệ của các hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế được[2] so với giá thành sản xuất ra chúng, đồng thời cũng làm giá hàng nhập khẩu tăng lên so với giá hàng sản xuất trong nước, từ đó khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên phá giá thường gây hậu quả lạm phát. Nếu tỷ lệ lạm phát nước ta cao hơn tỷ lệ lạm phát ở nước ngoài thì giá hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế được tính theo nội tệ sẽ trở nên đắt hơn so với giá hàng nhập khẩu, gây ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Chính vì tác dụng hai mặt trên của phá giá danh nghĩa mà từ cuối những năm 70, khi triển khai rộng rãi chương trình ổn định kinh tế và điều chỉnh cơ cấu tại tác nước đang phát triển với mục tiêu cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế hợp lý bằng cách động viên xuất khẩu và kìm hãm nhập khẩu, Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới đã đưa vào sử dụng khái niệm tỷ giá thực phản ánh hiệu quả tổng hợp của phá giá và lạm phát tới sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của mỗi nước.
Tỷ giá thực là giá tương đối của hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế được so với hàng hoá và dịch vụ không thương mại quốc tế được. Về toán học, nó được xác định theo công thức:
                   RER = Pt /  Pnt                      (2)
trong đó RER là tỷ giá thực, Pt và Pnt lần lượt là giá hàng hoá và dịch vụ thương mại và không thương mại quốc tế được, cả hai giá này đều được tính bằng tiền nội địa. Khi RER giảm xuống dưới mức được gọi là tỷ giá thực cân bằng, thì chúng ta gọi là có sự đánh giá cao giá trị đồng tiền quốc gia so với các đồng tiền nước ngoài hay là có hiện tượng đánh giá cao tỷ giá thực. Một sự tăng lên của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá hàng xuất nhập khẩu tăng nhanh hơn giá hàng tiêu dùng nội địa, kéo theo tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khi đó tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu sẽ tăng lên trong khi tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu giảm đi. Vốn, lao động và các nguồn lực khác sẽ bị thu hút vào khu vực làm hàng xuât khẩu và thay thế nhập khẩu, làm sản xuất của khu vực này tăng lên nhanh hơn so với tỷ lệ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước bị đánh giá cao, giá hàng nội địa sẽ tăng nhanh hơn giá hàng xuất nhập khẩu, ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu trong khi lại khuyến khích nhập khẩu. Vốn, lao động và các nguồn lực khác sẽ bị thu hút vào khu vực sản xuất tự cung tự cấp, giảm sản xuất trong khu vực làm hàng xuât khẩu và thay thế nhập khẩu. Như vậy, biến động của tỷ giá thực có ảnh hưởng rất lớn tới thay đổi cơ cấu sản xuất và hệ thống giá nội địa, và chính vì vậy mà chính sách tỷ giá luôn luôn là điểm trọng tâm trong tất cả các chương trình ổn định kinh tế và điều chỉnh cơ cấu do các tổ chức tài chính quốc tế chủ trương.
          Trong công thức trên, Pt= ER * Pi, trong đó Pi là giá tính theo ngoại tệ của các hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế được, thường được xác định theo giá thế giới, và ER là tỷ giá danh nghĩa, đa phương hoặc song phương tuỳ hoàn cảnh số liệu. Thay vào công thức (2) ở trên và sử dụng tỷ giá đa phương EER, ta có :
                                      RER = EER * Pi /  Pnt                     (3)
          Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân chia các hàng hoá và dịch vụ trong nước thành hai loại thương mại quốc tế được và không thương mại quốc  tế được rất khó khăn, nhất là trong điều kiện các nước đang phát triển, nên thay vì dùng công thức (3), người ta sử dụng công thức xấp xỉ sau đây:
                                      RER = EER * Pe / Pd                     (4)
trong đó Pd là chỉ số giá nội địa, đại diện cho giá hàng hoá và dịch vụ không thương mại quốc tế được, và Pe là chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ trung bình của các nước bạn hàng. Pd và Pe có thể là giá tiêu dùng hoặc giá GDP. Theo công thức trên, nếu tỷ giá danh nghĩa không đổi, nhưng giá thế giới tăng 5% và mặt bằng giá trong nước tăng 15% thì tỷ giá thực sẽ giảm 8,7% (105%/115%-100=-8,7%). Khi đó đồng tiền nội địa sẽ được xem là bị đánh giá cao 8,7% so với thời điểm trước mặc dù tỷ giá danh nghĩa không thay đổi.

          2- VỀ TÍNH TỶ GIÁ THỰC CHO NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
          Chúng ta sẽ ước tính tỷ giá thực cho nền kinh tế nước ta trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay theo công thức (4). Việc chọn năm 1992 làm năm mốc dựa trên ý kiến của nhiều chuyên gia, cho rằng tại thời điểm đó, nền kinh tế nước ta đã thoát ra khỏi thời kỳ lạm phát cao và bắt đầu đi vào giai đoạn phát triển cân bằng; tỷ giá thực năm 1992 do đó được xem như là tỷ giá thực cân bằng. Quá trình tính được thực hiện theo 3 bước sau:
          a) Bước 1: Tính chỉ số giá trung bình của các nước bạn hàng Pe
Công thức xác định chỉ số giá trung bình của các nước bạn hàng của ta như sau:
                             Pe = Trung bình nhân của các Pk                                        (5)
trong đó Pk là chỉ số giá tiêu dùng của nước bạn hàng k, Sk là các trọng số, đại diện bằng tỷ trọng xuất nhập khẩu của ta thực hiện với nước k trong tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta. Các số Pk được lấy từ "Thống kê tài chính quốc tế"  xuất bản hàng tháng và năm của Quỹ Tiền tệ quốc tế. Dưới đây là bảng chỉ số giá tiêu dùng của các bạn hàng chính từ năm 1992 đến 1998.
Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng của các bạn hàng chính, năm 1992=100%

1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
 Malaixia
100
103.57
107.41
113.08
117.11
120.22
126.53
 Inđônêxia
100
109.60
118.95
130.16
140.61
150.04
236.53
 Philipin
100
107.58
117.32
126.84
137.51
144.39
157.39
 Singapo
100
102.27
105.39
107.28
108.70
110.87
110.59
 Thai lan
100
103.36
108.64
114.91
121.64
128.45
138.82
 Đài loan
100
102.90
107.10
111.10
114.50
115.60
117.50
 Hồng kông
100
108.90
118.50
129.20
137.30
145.40
149.50
 Hàn quốc
100
104.82
111.28
116.28
122.05
127.48
137.04
 Nhật Bản
100
101.24
101.90
101.81
102.00
103.71
104.38
 Trung quốc
100
114.60
142.30
166.40
180.20
185.20
183.80
 Nga
100
974.6
3970.5
11808.3
17429.1
19973.4
25526.4
 Anh
100
101.55
104.10
107.65
110.29
113.75
117.58
 Đức
100
104.38
107.23
109.23
110.85
112.84
113.89
 Hà lan
100
102.63
105.45
107.52
109.77
112.12
114.29
 Pháp
100
102.08
103.78
105.58
107.76
108.99
109.74
 Thụy sĩ
100
117.01
133.78
153.46
172.73
189.41
203.75
 Mỹ
100
102.98
105.59
108.57
111.73
114.43
116.20
 Australia
100
101.82
103.74
108.64
111.42
111.71
112.67
Các nước khác
100
105.37
111.91
118.69
124.48
129.10
138.25
Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế, 1999, IMF

Các số liệu về Sk được tính từ các bảng số liệu xuất nhập khẩu phân theo nước và vùng lãnh thổ trong Niên giám Thống kê do Tổng cục Thống kê nước ta xuất bản hàng năm. Sk được tính qua các năm, ví dụ năm 1997, ngay trước khủng hoảng kinh tế Đông á, tỷ trọng giá trị xuất nhập khẩu của ta thực hiện với Malaixia là 1,77%, Indonexia 1,19%, Philipin 1,33%, Singapo 16,09%, Thailan 3,90%, Đài loan 11,07%, Hàn quốc 9,54%, Hồng kông 4,96%, Nhật bản 15,32%, Trung Quốc 4,23%, Nga 1,36%, Anh 1,78%, Đức 3,33%, Hà lan 1,54%, Pháp 3,80%, Thuỵ sĩ 2,30%, Mỹ 2,62%, Australia 2,04% và các nước còn lại 11,84%.
          Từ các số liệu Pk và Sk, chúng tôi tính được chỉ số giá trung bình của các nước bạn hàng của ta, Pe, lần lượt là 100 năm 1992 (năm gốc), 107,47 năm 1993, 114,9 năm 1994, 121,5 năm 1995, 126,27 năm 1996, 130,09 năm 1997 và 134,86 năm 1998. Mức độ tăng giá hàng năm trung bình của các đối tác kinh tế chính của ta là 7,5% năm 1993, 6,9% năm 1994, 5,7% năm 1995, 3,9% năm 1996, 3,0% năm 1997 và 3,7% năm 1998. Như vậy, tỷ lệ lạm phát trung bình hàng năm của các nước bạn hàng liên tục thấp hơn tỷ lệ lạm phát của ta, trừ năm 1993.
         b) Bước 2: Xác định tỷ giá danh nghĩa bình quân của các nước bạn hàng EER
Tỷ giá danh nghĩa ở nước ta gồm tỷ giá giữa đồng tiền việt nam với đồng đô la Mỹ và với nhiều loại ngoại tệ khác. Tỷ giá giữa đồng tiền việt nam với đồng đô la Mỹ được công bố rộng rãi hàng năm trong khi không có các số liệu về tỷ giá giữa đồng Việt nam với các đồng tiền khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể tính chúng thông qua sử dụng tỷ giá giữa các đồng tiền khác với đồng đô la theo công thức sau, ví dụ cho đồng DM Đức:

                   ERvn-dm = ERvn-usd / Erdm-usd                   (5)

Trong đó ERvn-dm là tỷ giá đồng tiền Việt so với 1 DM Đức, ERvn-usd là tỷ giá đồng tiền Việt nam so với 1 USD và ERdm-usd là tỷ giá đồng DM so với 1 USD. Dưới đây là bảng tỷ giá giữa đồng tiền của các bạn hàng chính với đồng đô la Mỹ.

Bảng 2: Tỷ giá giữa đồng tiền của các bạn hàng chính với đồng đô la Mỹ.

Đơn vị tiền tệ
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
 Malaixia
Ringgit
2,612
2,702
2,560
2,542
2,529
3,892
3,800
 Inđônêxia
Rupiah
2062
2110
2200
2308
2383
4650
8025
 Philipin
Peso
25,10
27,70
24,41
26,21
26,29
39,98
39,06
 Singapo
Đôla
1,645
1,608
1,461
1,414
1,400
1,676
1,661
 Thai lan
Baht
25,52
25,54
25,09
25,19
25,61
47,25
36,69
 Đài loan
NT$
26,30
26,40
26,50
26,50
27,50
28,70
33,40
 Hồng kông
HK$
7,743
7,726
7,738
7,732
7,736
7,746
7,746
 Hàn quốc
Won
788,4
8081
7887
7747
8442
16950
1204,0
 Nhật Bản
Yên
124,8
1119
997
1028
1160
1300
115,6
 Trung quốc
Yuan
5,752
5800
8446
8317
8298
8280
8,279
 Nga
Rup
0,415
1,25
3,55
4,64
5,56
5,96
20,65
 Anh
Bảng
0,661
0,675
0,640
0,645
0,589
0,605
0,601
 Đức
DM
1,614
1,726
1,549
1,434
1,555
1,792
1,673
 Hà lan
Guider
1,814
1,941
1,735
1,604
1,744
2,017
1,889
 Pháp
Franc
5,51
5,90
5,35
4,90
5,24
5,99
5,62
 Thụy sĩ
Franc
1,456
1,480
1,312
1,150
1,346
1,455
1,377
 Australia
AU$
1,45
1,48
1,29
1,34
1,25
1,53
1,63
 Việt nam
Đồng
10550
10624
11006
10940
11072
12644
13858
Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế, 1999, IMF

Từ các số liệu trong bảng, chúng ta tính ra các chỉ số tỷ giá của các đồng tiền nước ngoài so với đồng tiền ta. Kết hợp với chỉ số tỷ giá danh nghĩa giữa đồng tiền Việt nam và đồng đô la mỹ, chúng ta tính được chỉ số tỷ giá trung bình của các đồng tiền trên đối với đồng tiền Việt nam với trọng số là tỷ trọng giá trị xuất nhập khẩu của ta thực hiện với các nước tương ứng. Kết quả tính toán được nêu trong cột 4 bảng 3. Nếu so với chỉ số tỷ giá song phương giữa đồng tiền nước ta và đồng đô la, lần lượt là 100% năm 1992, 100,7% năm 1993, 104,3% năm 1994, 103,7% năm 1995, 104,9% năm 1996, 119,85% năm 1997 và 131,35% năm 1998, chúng ta thấy có sự khác nhau khá lớn. Từ năm 1992 đến cuối năm 1998, đồng tiền Việt nam đã bị mất giá 31,35% so với đồng đô la, song do cũng trong khoảng thời gian trên, các đồng tiền khác cũng bị mất giá so với đồng đô la Mỹ nên kết quả chung là đồng tiền Việt nam chỉ mất giá 6,97% so với tất cả các đồng tiền trung bình của các nước bạn hàng chính.

c) Bước 3: Xác định tỷ giá thực RER
Từ các chỉ số tính toán ở trên, được tổng hợp lại trong bảng 3, chúng tôi đã tính tỷ giá thực nước ta theo công thức (4). Kết quả được ghi trong cột cuối của bảng 3. Theo kết quả tính toán, nếu lấy năm 1992 làm năm gốc, thì đồng tiền nước ta bị phá giá tỷ giá thực 1,94% năm 1993 và 1,34% năm 1994 do lạm phát trung bình của các nước bạn hàng cao hơn nước ta (năm 1993) và tính trung bình các đồng tiền các nước bạn hàng mất giá so với đồng đô la cao hơn nước ta (năm 1994). Từ năm 1995 đến nay, đồng tiền nước ta liên tục bị đánh giá cao, năm cao nhất là 15,7% (năm 1997), trung bình 9,8% trong thời kỳ 1995-1998. Đến cuối năm 1998, mặc dù nội tệ đã bị phá giá tới 14,4% năm 1997 và 9,6% năm 1998, đồng tiền nước ta vẫn còn bị đánh giá cao tới 10,7%.

Bảng 3: Các chỉ số để xác định tỷ giá thực (năm 1992 = 100%)
Năm
Lạm phát
Việt Nam
Lạm phát của
các nước bạn
Tỷ giá
đa phương
Tỷ giá
thực
1992
100,00
100,00
100,00
100,00
1993
105,20
107,47
 99,79
101,94
1994
120,35
114,90
106,15
101,34
1995
135,63
121,50
106,44
 95,35
1996
141,74
126,27
103,16
 91,90
1997
146,84
130,09
 95,13
 84,28
1998
160,35
134,86
106,97
 89,27

3- BÀN VỀ MỨC ĐỘ PHÁ GIÁ ĐỒNG TIỀN NƯỚC TA

a) Những hậu quả tiêu cực của việc đánh giá cao tỷ giá thực:
          Đánh giá cao tỷ giá thực là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất tại nhiều nước đang phát triển. Nó không chỉ làm cho nhập khẩu trở nên rẻ hơn một cách giả tạo đối với người tiêu dùng và xuất khẩu trở nên đắt hơn đối với người sản xuất mà còn làm giảm sức cạnh tranh của toàn nền kinh tế, từ đó làm giảm sản xuất nội địa, tăng tỷ lệ thất nghiệp và tăng thâm hụt ngân sách[3]. Theo kinh nghiệm thế giới, khi tỷ giá thực bị đánh giá cao hơn 10-15% và kéo dài trên 1-2 năm thì nền kinh tế sẽ bị đẩy vào khủng hoảng. ở nước ta, tỷ giá thực đã bị đánh giá cao ngay từ năm 1995 và trên 10% kể từ năm 1997, gây ra rất nhiều khó khăn cho nền kinh tế từ năm 1997-98, đúng theo các lý thuyết tỷ giá và kinh nghiệm quốc tế. Một số hậu quả chính là:
          (1) Sức cạnh tranh của nền kinh tế giảm nhanh.
Kết quả là tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu giảm đi rất nhanh (xem bảng 4). Tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trở nên rất cao trong các năm 1995-96. Thâm hụt ngoại thương tăng vọt từ 1,77 tỷ đô la Mỹ năm 1994 lên 2,71 tỷ năm 1995 và 3,89 tỷ năm 1996. Tỷ lệ thâm hụt ngoại thương so GDP cũng tăng vọt từ 9% trong những năm 1993-94 lên 11,6% năm 1995 và 13,8% năm 1996. Tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai cũng tăng tương ứng từ 6-7% lên 10,6% và 11,5%. Mặc dù phần quan trọng của thâm hụt này đã được tài trợ dễ dàng bằng vay nước ngoài, nhưng sẽ làm tăng nhanh gánh nợ nước ngoài mà cuối cùng sẽ phải dùng thặng dư thương mại tương lai để trả nợ. Để ngăn chặn sự gia tăng quá nhanh của tỷ lệ thâm hụt cán cân thương mại, chính phủ Việt nam đã phải áp dụng trở lại nhiều biện pháp hành chính và tăng bảo hộ để giảm nhanh nhập khẩu.

          Bảng 4: Hậu quả của đánh giá cao tỷ giá thực 1996-1999

[2] Tradable goods, đó là các hàng hóa và dch v có th tham gia hot động xut nhp khu được vì th trường thế gii chp nhn chúng, mc dù chúng có được xut nhp khu hay không. Ví d thép do nước ta sn xut ra mc dù ch để tiêu dùng ni địa, nhưng nếu đưa ra bán trên th trường quc tế mà tìm thy khách mua d dàng thì thép đó vn được coi là hàng thương mi quc tế được.
[3] Xem chi tiết các hu qu ca vic đánh giá cao t giá thc trong bài: Hin tượng đánh giá cao ni t và nhng hu qu tiêu cc", Tp chí Ngân hàng 12/1994.
Hoặc xem ở đây:
http://toithichdoc.blogspot.ch/2012/08/hien-tuong-anh-gia-cao-noi-te-va-nhung.html
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét