“Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một, như đường mía lau”
Đoàn Xuân Thu – 26 tháng 7, 2025 - Ca dao Việt Nam là kho tàng ngôn ngữ bình dân vô cùng phong phú, phản ánh cách cảm, cách nghĩ, và nhân sinh quan của người xưa bằng hình ảnh thân thuộc và biểu tượng giản dị mà thâm trầm.Trước hết, cần dứt khoát gạn lọc mọi sự hiểu lầm về mặt cú pháp và ngữ nghĩa. Nhiều người tưởng “chuối ba hương” là tên một giống chuối, như chuối sứ, chuối già, chuối xiêm… nhưng thực ra “ba hương” không phải danh từ riêng; ba hương là tiếng bổ ngữ (adjective) cho danh từ (noun) chuối. Từ “ba hương” là ba nén nhang. Dân gian xưa thường “dú chuối,” tức đem chuối xanh, chuối sống để vào khạp rồi dùng bao bố đậy kín để giữ nhiệt, có khi dùng lá chuối khô phủ lên, xong thắp ba cây nhang để chuối chín đều, thơm ngọt. Người ta tin rằng, sau khi nhang tàn, chuối sẽ “đủ hương,” chín tự nhiên mà không hư.
Vậy nên, câu “mẹ già như chuối ba hương” không hề mang hàm ý so sánh mẹ với một trái chuối chín cây dễ rụng, mà chính là ca ngợi sự chín muồi, dịu dàng và quý giá của người mẹ già. Già nhưng không vô dụng. Mẹ như trái chuối chín vừa tới độ, từ tấm lòng nhẫn nại, từ hơi ấm của nhang khói tổ tiên, từ bao ngày hy sinh lặng lẽ.
Từ hình ảnh ấy, câu ca dao tiếp nối bằng hai vế so sánh nữa: “như xôi nếp một, như đường mía lau.”
“Xôi nếp một” là biểu tượng cho sự tinh khiết, dẻo thơm, kết tụ từ hạt lúa trời ban. Nếp một không lẫn lộn với nếp thường, hạt nào ra hạt nấy, nở bung nhưng vẫn dẻo quánh, không rời rạc. Mẹ già cũng thế: dẻo dai, mềm mại, nhưng không hề rệu rã.
“Đường mía lau” là loại đường được nấu từ thân mía lau, thứ mía dẻo, ngọt hậu, thường mọc nơi ven sông bãi bồi, không phải giống mía trồng ngoài đồng. Nước mía lau tuy khó ép vì rất cứng nhưng thơm và ngọt đậm.
Tình thương con của mẹ già cũng vậy, không bộc phát mãnh liệt, nhưng lại đằm thắm, tinh tế, ngọt ngào mà sâu lắng.
Ba hình ảnh “chuối ba hương – xôi nếp một – đường mía lau” làm nên một tam đoạn luận tuyệt mỹ về người mẹ già: chín muồi về tuổi đời, trân quý trong nhân phẩm, và ngọt ngào vô điều kiện trong tình thương.
Thế nhưng, một câu ca dao tuyệt vời như vậy lại bị phóng tác sai lệch trong bài hát “Mừng tuổi mẹ” của nhạc sĩ Trần Long Ẩn.
Ông ta viết: “Mẹ già như chuối chín cây, Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi, Mồ côi tội lắm ai ơi, Đói cơm, lỡ bước, biết người nào lo.”
Ca từ này, thoạt nghe thì có vẻ cảm động, nhưng thực chất là một sự giản lược và sai lạc cả về văn hóa lẫn tư tưởng. Việc thay thế hình ảnh “chuối ba hương” bằng “chuối chín cây” không chỉ làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng mà còn hạ thấp giá trị biểu tượng của người mẹ già trong ca dao Việt.
Chuối chín cây, ai cũng biết, thường mềm nhũn, dễ rụng, đôi khi bị chim chóc rỉa, hoặc úng nước thối nhanh. Đó là hình ảnh mong manh, tiêu cực, gợi sự tàn úa. Gió lay là rụng, là chết. Và mẹ-trong ca từ của ông, trở thành một thực thể chờ chết, sẵn sàng bị gió đời cuốn đi bất cứ lúc nào.
So sánh như vậy là hời hợt, thiếu tri thức dân gian, và bàng bạc một lối tư duy bi lụy, buồn bã, thậm chí ủy mị. Nó không còn là sự ca ngợi tình mẹ mà hóa ra một lời báo tử u uẩn. Trong khi ca dao gốc lại là lời nhắc nhở nhẹ nhàng, dịu ngọt, đầy đạo lý và yêu thương.
Cũng cần nói thêm rằng, cây chuối, về bản chất, không rụng từng trái từng quả như cam, quýt… Khi chuối chín, bà con mình đốn cả buồng, hoặc nếu ngã, là ngã luôn cả cây. Vậy thì hình ảnh “gió lay mẹ rụng” lại càng sai thực tế, nếu không muốn nói là thất lễ. Nó cho thấy sự tùy tiện trong việc sử dụng biểu tượng văn hóa để minh họa cảm xúc cá nhân, mà không tôn trọng tinh thần nguyên thủy lời ca dao.
Chúng ta không phản đối việc phóng tác hay sáng tạo văn nghệ từ chất liệu dân gian. Nhưng mọi sáng tạo đều cần khởi đi từ sự hiểu biết và tôn trọng.
Ca dao, dù mộc mạc, nhưng là kết tinh của nhiều thế hệ, được sàng lọc qua bao đời sống nông dân, qua từng bếp lửa, từng bữa cơm nghèo, từng tiếng võng ru em. Đó là trí tuệ cộng đồng chứ không phải thứ “cổ ngữ” dễ dãi để phóng tác tùy hứng.
Lối “cách mạng hóa” dân gian, như kiểu của Trần Long Ẩn, đã phạm vào một tật xấu trí thức: lấy cảm xúc cá nhân làm chân lý, rồi nhân danh “nghệ thuật vì quần chúng” để biến văn hóa dân tộc thành món ăn tuyên truyền.
Càng tệ hơn, cái gọi là “mừng tuổi mẹ” trong bài hát ấy lại hàm chứa một nỗi buồn tang tóc. Đó không phải là lời chúc xuân, mà là dự báo mẹ chết, con mồ côi. Nghĩa là ông ta muốn mẹ ông còn sống để nấu cơm cho ông ăn.
Thử hỏi, một người con hiếu thảo, khi chúc thọ mẹ, có ai lại viết “mẹ rụng” không?
Người xưa viết:
“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.”
Đó mới là đạo hiếu. Đó mới là văn hóa. Và đó mới là nhân bản.
***
Câu ca dao: “Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một, như đường mía lau” là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nó kết tụ cả tấm lòng người con, tình mẹ, văn hóa thờ cúng tổ tiên, và mỹ học dân tộc.
Việc hiểu sai, hoặc phóng tác cẩu thả vì mục đích tuyên truyền, như trong trường hợp nhạc sĩ Trần Long Ẩn, không chỉ làm hỏng câu thơ, mà còn xúc phạm đến linh hồn văn hóa dân tộc.
Chúng ta, những người còn tha thiết với tiếng Việt và đạo hiếu, cần lên tiếng để bảo vệ cái hay, cái đẹp, cái chân thật của tổ tiên, trước khi nó bị bôi nhọ bằng những lối ca tụng “nghệ thuật vị chính trị” nửa mùa, đầy hãnh tiến và thiếu suy ngẫm.
--------------
PS: Muốn hiểu kỹ câu ca dao trên, ta phải xem xét toàn bộ ba cấu trúc so sánh: mẹ già như: 1) chuối ba hương, 2) như cơm nếp một, và 3) như đường mía lau.
Ta sẽ lần lượt xem xét từng trường hợp. Cả ba cấu trúc đều có chung một vế so sánh, đó là "mẹ già". Vế sau (cái được đem ra so sánh) là: chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau. Vậy ta thử tìm hiểu ba vật dụng này xem sao.
Chuối ba hương (còn gọi chuối bà hương) cùng loại với chuối bà lùn nhưng cây nhỏ và thấp hơn, được trồng nhiều ở miền Trung, xứ Huế. Chuối ba hương thích hợp với đất phù sa triền bãi. Quả của nó không to, vỏ dày vừa phải, khi chín có lấm tấm như trứng cuốc và là loại chuối ngon nhất trong họ chuối tiêu.
Lúa nếp một (một loại nếp cái) thuộc dòng lúa nếp truyền thống. Đó là giống lúa nếp ngon nhất trong số hàng chục loại lúa nếp được trồng ở nước ta (nên được xếp vào loại 1 - một). Thân cây lúa nếp này cao, cứng, lá to, hạt trắng tròn, dài, là loại lúa dài ngày (tới 5 - 6 tháng mới thu hoạch). “Xôi nếp một” trắng, dẻo, thơm, ngon nổi tiếng. Cây lúa nếp một được khắc vào đỉnh đồng (Nhân đỉnh) thời vua Minh Mạng (1791-1841, vị vua thứ hai triều Nguyễn).
Còn đường mía lau là đường sản xuất từ một loại mía (có hình dạng giống cây lau). Dân gian có câu: Mía lau vừa ngọt vừa mềm/ Không dao mà tiện, không tiền mà mua. Đây là một trong bảy loại cây thảo dược (bọ mắm, cỏ tranh, mã đề, mía lau, râu bắp, lá dứa, lẻ bạn) dùng nấu nước uống, giúp lọc gan, thanh mát cơ thể...
Như thế, ta thấy ba cấu trúc vừa xét có cấu trúc ngữ nghĩa đồng hướng, đều khẳng định giá trị tốt đẹp của chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau. Đó cũng chính là hướng mà thông điệp hướng tới, muốn khẳng định vai trò, giá trị không thể thay thế của Người Mẹ. Người mẹ là người hội đủ những phẩm chất quý giá nhất.
Chúng ta, ai cũng có một người mẹ, một quê hương (Quê hương mỗi người chỉ một / Như là chỉ một mẹ thôi - Đỗ Trung Quân). Vậy với Người Mẹ, chúng ta phải biết yêu thương, trân trọng, nâng niu và phụng dưỡng cho mẹ được vui sống đến trọn đời.
Tac gia bai viet voi Tran long An chac la ke thu cua nhau -bai viet vua hay vua thien can khi co chap tung cau tung chu gan vao thuc te ---tac gia muon bay bong nhung lai le tung buoc tren duong .
Trả lờiXóa