Chuyện ông Lâm, ông Trọng và vị thế của quân đội
Lê Việt Đức - Bài dưới đây anh Hải viết khá hay, tôi thích nhất câu tư tưởng của Mao được anh dẫn lại: “Chính quyền sinh ra từ họng súng “. Điều này làm chính trị ai cũng phải biết.![]() |
Ông chỉ dùng Tô Lâm để trừng trị các đối thủ chứ không biết tạo vây cánh trong lực lượng vũ trang, nhất là trong quân đội, lực lượng nắm trong tay quân số và trang thiết bị hùng mạnh nhất để giữ vững chính quyền và đảm bảo duy trì được chính quyền cho mình và những người kế tục của mình.
Các vương triều phong kiến cha truyền con nối xưa kia đều tồn tại vài ba trăm năm đến 8 trăm hay cả nghìn năm vì họ biết điều sơ đẳng đó. Ông Trọng cả đời làm tuyên giáo nên học Tầu, toàn làm theo Tầu nhưng kiến thức sơ đẳng này của Tầu thì ông Trọng không nắm được. Học trăm thứ đông tây kim cổ, nhưng cái sơ đẳng lù lù trước mắt lại không thấy; có lẽ chính vì thế dân gian mới đặt hỗn danh cho ông là Trọng “Lú”.
Ông Ba Dũng có cái tài mà ít lãnh đạo Việt Nam có, đó là biết thu phục lòng quân. Ông rộng rãi ban ơn cho quân, muốn gì được nấy, từ thả cho quân thoải mái tham nhũng tiền ngân sách và cướp đoạt tiền của dân mà không bao giờ kỷ luật bất cứ ai, đến phong tướng tràn lan trong cả quân đội lẫn công an. Dĩ nhiên đổi lại là khủng hoảng kinh tế và xã hội triền miên mà hậu quả của nó kéo dài đến hôm nay và còn tiếp tục trong nhiều năm tới.
Được hưởng ân huệ, mưa móc vua ban hàng chục năm thì ai chẳng yêu và nhớ ơn ông Dũng, cúc cung tận tụy phục vụ và bảo vệ gia tộc ông Dũng.
Ông Trọng chân không tới đất (không nắm được công an, quân đội, Tô Lâm cũng không phải là tâm phúc của ông mà là tâm phúc của đối thủ của ông), đầu không tới trời (lú lẫn những kiến thức sơ đẳng), nên ngay khi ông còn nắm quyền tuyệt đối, các đại tướng tiên phong của ông đã bị chém rụng như sung mà ông bất lực chỉ trơ mắt nhìn. Điển hình là các đại tướng Vương Đình Huệ, Võ Văn Thưởng, Trương Thị Mai, Phạm Bình Minh, Vu Đức Đam…Điều này khẳng định những năm cuối đời ông không còn khống chế được cục diện, tức là mất dần quyền lực.
Nhục nhã nhất cho ông Trọng là ngay sau khi ông mất, người ta đã tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và các Huân chương cao bậc nhất của quốc gia cho những người ông Trọng rất căm ghét và tìm mọi cách cô lập họ, điển hình như ông Ba Dũng hay ông Đinh Thế Huynh… Và chỉ một thời gian rất ngắn sau khi ông mất, báo chí chính thống cũng không mấy khi nhắc đến tên ông. Còn người dân tối ngày lo cơm áo gạo tiền thì đã quên ông từ sớm hơn.
Hạnh phúc nhất của đời người là lưu lại được những gì cho con cháu và cho đất nước, làm cho tên mình còn được đời sau nhắc đến với sự tôn trọng, biết ơn. Tên tuổi một người được lưu danh càng lâu thì họ càng vĩ đại.
Thông thường mỗi khi một nhà chinh trị mất đi, người ta luôn nói hãy chờ lịch sử đánh giá công và tội của họ; và thường phải chờ đợi trong nhiều thập kỷ.
Riêng ông Trọng, vì cả đời ông làm tuyên giáo và ông chẳng làm được bất cứ việc gì có ích cho đất nước ngoài việc sử dụng quyền lực được Đảng trao để trừng phạt các đối thủ của chính ông, nên lịch sử đã phán xét quá nhanh và khá buồn. Trong lịch sử dân tộc, hiếm có trường hợp nào như ông Trọng.
Bài học của ông Trọng làm tấm gương cho các thế hệ lãnh đạo tiếp theo của đất nước soi mình. Có hai điều phải khảm trong đầu:
Một là trong một nước cộng sản, muốn nắm quyền và có thực quyền, phải nắm chắc lực lượng vũ trang, trọng tâm là quân đội. Đặc biệt, quan trọng nhất là phải nắm và điều khiển được Quân ủy Trung ương, làm cho Quân ủy Trung ương trung thành tuyệt đối với mình, sẵn sàng chấp hành vô điều kiện mọi mệnh lệnh của mình.
Hai là làm gì cũng phải xuất phát từ lợi ích của đất nước, hạnh phúc của nhân dân; việc gì có lợi cho dân nhất định phải làm, việc gì có hại cho dân nhất định không làm. Hãy luôn luôn ghi nhớ: Thương dân dân lập bàn thờ. Hại dân dân đái ngập mồ thối xương.
————-
Đệ anh Ba, hậu sinh khả úy!
Anh em nhà Tây Sơn, Nhạc, Huệ, Lữ dẫu cùng dấy cờ khởi nghĩa nhưng đã có lúc nghi ngờ về sự tiếm quyền mà đã suýt nện nhau chí tử. Lưu Bị – Quan Vũ – Trương Phi, không phải là đồng hương nhưng kết nghĩa huynh đệ đào viên, chung thủy trọn đời.
Lại nói chuyện anh Ba, xuất thân từ y tá rồi trưởng thành qua cơ sở để vào Trung ương, làm đến Bí thư tỉnh ủy. Tháng 1/1995, ở tuổi 46, anh Ba rời Kiên Giang tham gia công tác trong trung ương với các chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ (Bộ Ca); Tháng 8/1996 anh là Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Ủy viên BCH Tư Đảng. Sau đó anh Ba tiếp tục làm Phó Thủ tướng (1997), rồi Thủ tướng (2006–2016).
Về anh Tô, đã có 10 năm (1979 – 1988) ở đơn vị Cục Bảo vệ chính trị I, Tổng cục An ninh. Tháng 12/1988, anh được bổ nhiệm làm Phó Trưởng phòng của Cục, rồi trở thành Trưởng phòng thuộc Tổng cục An ninh, Bộ Nội vụ, giai đoạn 1990 – 1993. Sau đó (1993 – 2006), anh Tô giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Ct I (A63) rồi Cục trưởng Cục Bảo vệ Ct III (A64) thuộc Tổng cục An ninh. Tháng 8/2010, anh Tô được anh Ba Thủ tướng bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Công an, chính thức kết thúc sự nghiệp hơn 30 năm ở TC An ninh.
Nói như thế để thấy rằng, anh Tô đã có một thời trai trẻ gắn bó với anh Ba. Điều này giải thích vì sao, trong những ngày nhà anh Ba “có việc”, anh Tô thường rất ít khi vắng mặt.
Điều trớ trêu là, dẫu anh Ba là một trong số các tể Tướng mà quyền lực lấn át cả vua nhưng rồi anh Ba cũng đã bị cụ Tổng Bắc Kỳ cho out về làm người tử tế.
Là đệ của 3X, anh Tô đã có 8 năm làm thuộc hạ đắc lực cho cụ Tổng, đối thủ chính trị của anh Ba. Dẫu cung cúc tận tụy, đặc biệt là trong công cuộc “đốt lò” nhưng chưa từng được cụ Tổng xếp vào dạng cán bộ có tiềm năng “kế cận”.
Sau đại hội XIII, dẫu được vào BCT, nhưng anh Tô được xếp thứ X trong số 18 UVBCT. Với thứ hạng đó, tuổi tác đó, dẫu ai giàu trí tưởng tượng đến mấy cũng không nghĩ đến việc anh Tô ngắm nghía ngôi vương.
Một năm sau khi lên làm BT, anh trực tiếp sang EU chỉ đạo bắt cóc Trịnh Xuân Thanh làm cụ Tổng rất hài lòng. Dẫu rằng hành động đó vẫn gây ra không ít tranh cãi.
Cách làm này khiến người ta liên tưởng đến Việt vương Câu Tiễn ẩn mình chờ thời. Để làm nên đại nghiệp, Câu Tiễn không ngần ngại làm nô lệ phục dịch cho Ngô vương Phù Sai để rồi lấy lại nước Việt, làm cho nó phát triển hùng mạnh.
Bằng cách cúi đầu chịu nhục để mưu cầu quyền lực chính trị, chỉ 3 năm, sau Đại hội XIII, cụ Tổng sau một thời gian ốm yếu đã rời cõi trần vào tháng 7/2024, anh Tô đã trở thành người kế cận, tiếp quản ngôi vương mà cụ Tổng để lại, êm thuận, không có biến.
Hơn 1 năm ở ngôi tối cao, với những chính sách quyết liệt, thần tốc, anh Tô đã làm cho người tiền nhiệm của mình lu mờ. Công bằng mà nói, anh Tô đã rút ra được bài học từ cụ Tổng nên đã có cách làm khác. Bề ngoài vẫn tiếp tục công cuộc đốt lò, chương trình này vốn giúp cụ Tổng được lòng dân nên anh Tô vẫn tiếp tục. Phần còn lại, thay vì giáo điều, anh Tô giảm bớt, thêm vào đó là sự thực dụng trong việc xây dựng Ekip riêng để đảm bảo việc nắm quyền tuyệt đối.
Dẫu không xuất thân từ quân đội nhưng anh Tô xây lâu đài quyền lực dựa trên bộ khung Công an. Nguyên lý này cũng không xa rời tư tưởng của Mao: “Chính quyền được sinh ra từ họng súng”. Trong Bộ Công an, các đệ chủ yếu ở Hưng Yên đang nắm quyền kiểm soát và chi phối.
Ngày lên ngôi vương, anh Tô không quên huynh trưởng của mình ấy là 3x. Việc tặng Huân chương Sao vàng cho cựu Tể tướng là hành vi tri ân không thể nào long trọng hơn. Nghĩa cử này cũng giúp anh Tô rất nhiều trong việc kiểm soát xứ Nam Kỳ xa xôi, phên dậu của tổ quốc.
Dẫu rời chính trường gần chục niên rồi nhưng anh Ba vẫn xuất hiện trở lại với những đệ “hậu sinh khả úy”.
Tất cả cảm xúc:18Đỗ Văn Hùng, Lưu Dọc Tải và 16 người khác
5 bình luận
Thích
Bình luận
Chia sẻ
Xem thêm bình luận
Trần Tráng
Biết v
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét