Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2025

Bí mật thương mại của chủ nghĩa Trump theo góc nhìn lý luận

Tác giả bài này và nhiều tác giả khác cho rằng thâm hụt ngoại thương của Mỹ có nguồn gốc từ chính chính sách hay mục tiêu của Mỹ. Các đời tổng thống trước của Mỹ đều khuyến khích tiêu dùng, biến Mỹ thành xã hội tiêu thụ (làm ít ăn nhiều). Do đó họ đã liên tục in đô la đem mua hàng giá rẻ của các nước khác, sau đó lại vay số đô la này của chính những nước bạn hàng để mua hàng tiếp ở vòng sau. Cứ như thế, làm thâm hụt ngoại thương và nợ công của Mỹ ngày càng chống chất. Như vậy đấy là lỗi ở Mỹ. Ngược lại, nhóm của ông D. Trump cho rằng các nước cư xử bất công với Mỹ: Họ trợ cấp cho xuất khẩu làm hàng của họ có thể bán với giá rất rẻ, hàng Mỹ không thể cạnh tranh được. Như vậy, nước Mỹ là nạn nhân của các quyết định bóp méo nền kinh tế của chính các đối tác nước ngoài. Đây chính là cơ sở để ông D. Trump sử dụng thuế quan như một giải pháp kinh tế phù hợp. Dùng thuế quan, ông không phải đấu tranh chính trị tại các diễn đàn đa phương với thế giới mà ở đó Mỹ chỉ có một phiếu biểu quyết như các nước khác. Ông cho rằng với thuế quan, Mỹ có thể bảo hộ, ngăn chặn các nỗ lực của nước ngoài nhằm buộc Mỹ phải hấp thụ sản lượng hàng hóa dư thừa bán phá giá của Trung Quốc, Đức và Nhật Bản. Nhóm người theo chủ nghĩa bảo hộ của ông hy vọng rằng Mỹ có thể tạo ra sản lượng dư thừa của riêng mình nếu thuế quan chuyển tiền từ hộ gia đình sang các công ty (dưới hình thức giá cao hơn) và các công ty sử dụng khoản tiền bất ngờ đó để mở rộng sản xuất. Dĩ nhiên, những người theo chủ nghĩa bảo hộ thừa nhận trong giai đoạn chuyển tiếp, các mức thuế quan khủng này sẽ làm thu nhập giảm, người Mỹ có khả năng mua sắm ít hơn. Nhưng về lâu dài, khi đầu tư mới thu hút đã mạnh mẽ và bước vào sản xuất sản phẩm, kinh tế Mỹ sẽ bùng nổ và thu nhập của người Mỹ sẽ tăng nhanh. Vấn đề nan giải nhất đối ông Trump là người dân Mỹ chỉ quan tâm tới ngắn hạn mà ít chú ý tới dài hạn, nên thu nhập trong 2 năm 2025 và 2026 giảm sẽ làm họ nản lòng và quay sang ủng hộ Đảng Dân chủ trong kỳ bầu cử Quốc hội cuối năm 2026.
Bí mật thương mại của chủ nghĩa Trump theo góc nhìn lý luận
Wall Street Journal, Joseph C. Sternberg. Cù Tuấn biên dịch. 10-4-2025
Việc Tổng thống Trump đột ngột đảo ngược chính sách trong tuần này khó có thể đánh dấu sự khởi đầu cho hồi kết của cuộc phiêu lưu của ông trên vùng đất thuế quan, thật đáng tiếc. Hai chi tiết về sự cố thương mại trong tháng này cho thấy sự bi quan: Ông Trump vẫn khăng khăng duy trì mức thuế cơ bản 10% trên toàn cầu mặc dù ông đã tuyên bố “tạm dừng” hôm thứ Tư. Và chính quyền dường như không quan tâm đến chi phí mà các chính sách này sẽ gây ra cho các hộ gia đình Mỹ. Cả hai đều là manh mối cho thấy quy mô thực sự của tham vọng thương mại của ông Trump.

Đã đến lúc đào sâu vào quan điểm lý luận của chủ nghĩa Trump—và đúng là có một thứ như vậy. Những lý lẽ biện minh và mục tiêu của ông Trump cho các chính sách thương mại của mình liên tục thay đổi. Nhưng ngày càng rõ ràng hơn rằng thuế quan đối với ông không chỉ đơn thuần là vấn đề đàm phán đòn bẩy, hoặc tăng doanh thu hoặc bảo vệ một số ngành công nghiệp chiến lược. Chính sách đang có hiệu lực thể hiện quan điểm của một nhóm các nhà kinh tế học có hiểu biết về các mối quan hệ thương mại của Mỹ một cách có hệ thống nhưng không theo thông lệ và các đơn thuốc chính sách của họ, mà sẽ gây bất ngờ khó chịu cho nhiều người Mỹ.

Cốt lõi của chủ nghĩa Trump theo quan điểm lý luận là như sau: Nền kinh tế toàn cầu được đặc trưng bởi sự mất cân bằng lớn do chính sách gây ra trong cả dòng chảy thương mại và vốn. Những điều này bắt nguồn từ quyết định của một số nền kinh tế lớn – Đức, Nhật Bản và đặc biệt Trung Quốc là những nghi phạm thường gặp – trợ cấp sản xuất bằng cách kìm hãm tiêu dùng trong nền kinh tế trong nước của họ. Điều này tạo ra sản lượng sản phẩm “thặng dư” mà họ đã đẩy sang Mỹ.

Quan điểm này không sai, xét về mặt nào đó. Các nền kinh tế của các nước lớn trên và các nền kinh tế khác trong lịch sử đã triển khai một loạt các công cụ chính sách để thúc đẩy xuất khẩu. Ở Trung Quốc, biểu hiện nghiêm trọng nhất là chính phủ Trung Quốc đã trợ cấp trực tiếp cho các công ty xuất khẩu. Ít được nhìn thấy hơn đối với con mắt của nước ngoài là sự đàn áp tài chính: Việc cố tình kìm hãm lãi suất trong nước và kiểm soát chính trị đối với tín dụng để trợ cấp cho các doanh nghiệp (được hưởng lợi từ việc vay vốn giá rẻ) bằng cái giá phải trả là người tiêu dùng (những người nhận được ít thu nhập hơn từ tiền tiết kiệm và đầu tư của họ).

Các chính sách như vậy có thể có nhiều hình thức. Ở Đức, các khoản trợ cấp lớn bảo vệ các công ty lớn – tức là các nhà xuất khẩu – khỏi hậu quả tồi tệ nhất về giá năng lượng của các chính sách khí hậu ròng bằng không ngu ngốc của Berlin. Các hộ gia đình Đức thì sẽ phải trả toàn bộ cước phí cho điện năng họ tiêu thụ.

Hậu quả ròng của tất cả các chính sách này là sự chuyển giao lớn các nguồn lực ở các quốc gia này từ các hộ gia đình sang các nhà sản xuất, với kỳ vọng rằng Mỹ sẽ hấp thụ tất cả các sản phẩm mà người tiêu dùng trong nước họ không thể tiêu thụ.

Các nhà kinh tế học thân cận với Trump cho rằng, người Mỹ chúng ta tiêu thụ những sản phẩm đó vì chúng ta phải làm như vậy. Đây là lập luận cốt lõi của Michael Pettis, một giáo sư tài chính tại Bắc Kinh (người đã đóng góp cho các trang này) có công trình phổ biến nhiều lý thuyết thương mại trước đó dường như đã trở nên có ảnh hưởng trong nhóm của ông Trump. Theo lập luận này, vì các nền kinh tế khác tiêu thụ dưới mức trung bình, nên họ tích lũy được khoản tiết kiệm dư thừa. Họ tái đầu tư khoản tiết kiệm này vào Mỹ, nơi người Mỹ chúng ta chuyển đổi các yêu sách của nước ngoài (dưới hình thức đầu tư vốn chủ sở hữu hoặc mua nợ của Mỹ) thành tiêu dùng sản lượng dư thừa của nước ngoài. Thế là xảy ra thâm hụt thương mại.

Một điều kỳ lạ của lập luận này là Mỹ được cho là quốc gia có rất ít quyền tự quyết. Sau khi Washington mắc sai lầm đầu tiên khi mở cửa nền kinh tế thông qua việc cắt giảm thuế quan và tự do lưu thông vốn, họ đã bị hút vào cuộc đua.

Sự thật thì phức tạp hơn nhiều và đầy thách thức về mặt chính trị: Trong khi một số nền kinh tế khác hạn chế tiêu dùng trong nước và trợ cấp cho sản xuất xuất khẩu, người Mỹ lại chọn làm điều ngược lại. Thông qua các lựa chọn chính trị như hạn chế sản xuất và phân phối năng lượng, hoặc cho phép thủ tục hành chính rườm rà, hoặc bất kỳ sai sót chính sách nào khác, chính phủ Mỹ đã khiến việc sản xuất hàng hóa ở Mỹ trở nên khó khăn hơn nhiều so với bình thường. Trong khi đó, bạn không thể bước một bước nào ở Mỹ mà không vấp phải các văn phòng của các tổ chức cho vay tín dụng để tiêu dùng.

Để trích dẫn một vài ví dụ: Fannie Mae và Freddie Mac kích thích tình trạng tiêu dùng quá mức đối với nhà ở. Các khoản vay sinh viên được trợ cấp đã kích thích tình trạng tiêu dùng quá mức đối với giáo dục đại học Mỹ (mà, xét đến triển vọng thu nhập trọn đời kém của nhiều bằng cấp, thực sự nên được hiểu là tiêu dùng chứ không phải là đầu tư vào vốn con người). Khoản tín dụng thuế thu nhập kiếm được tạo ra những biến dạng phức tạp, ở mức độ nào đó đã trợ cấp cho tiêu dùng, trong khi lại ngăn cản công việc sản xuất bổ sung.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý nhất là quyền lợi của người Mỹ chúng ta. An sinh xã hội, Medicare và Medicaid, chưa kể đến một loạt các chương trình phúc lợi khác, đã chuyển một lượng tiền lớn vào tiêu dùng. Bí quyết ở đây là chúng ta có thể tài trợ cho những khoản này thông qua thâm hụt tài chính kinh niên do các nhà đầu tư nước ngoài tài trợ, nghĩa là ở mức biên độ thì người Mỹ đã vay từ phần còn lại của thế giới với lãi suất cực thấp và chuyển tiền vào việc tiêu dùng bên trong nước Mỹ.

Theo nghĩa này, thâm hụt thương mại của Mỹ là một lựa chọn chính sách—và là một lựa chọn phổ biến, vì những lý do hiển nhiên. Điều này giải thích rõ hơn những tưởng tượng về thuyết âm mưu toàn cầu – tại sao tình trạng này lại tồn tại trong thời gian dài như vậy. Giải pháp gốc rễ cho vấn đề được nhận thức về thâm hụt thương mại sẽ là tái cân bằng nền kinh tế Mỹ khỏi các khoản trợ cấp tiêu dùng lớn như vậy và các hình phạt nặng nề như vậy đối với việc sản xuất tại Mỹ.

Một số yếu tố của kế hoạch như vậy có thể được ưa chuộng, như ông Trump đang khám phá, với các động thái bãi bỏ quy định và năng lượng giá rẻ của mình. Nhưng một nửa quyền lợi lại là một bãi mìn. Đảng Cộng hòa thậm chí còn miễn cưỡng cắt giảm các lợi ích của Medicaid cho những người trong độ tuổi lao động khỏe mạnh. 

Lần cuối cùng một Tổng thống cố gắng cải cách An sinh xã hội, Tổng thống George W. Bush đã ủng hộ việc cho phép một phần tiền thuế lương được chuyển vào các tài khoản đầu tư cá nhân. Hệ thống hiện tại đã tạo ra một khoản trợ cấp tiêu dùng bằng cách chuyển các khoản thanh toán thuế thành các khoản chuyển nhượng cho người nhận; cải cách này sẽ tạo ra một hình thức trợ cấp đầu tư. Một chút lý lẽ hợp lý đó đã thoái hóa thành một thảm họa chính trị đau thương cho Đảng Cộng hòa.

Thay vào đó, thật dễ dàng hơn khi quay lại với quan niệm rằng nước Mỹ là nạn nhân của các quyết định bóp méo nền kinh tế của chính họ từ người nước ngoài. Điều này mở ra cánh cửa cho thuế quan như một giải pháp hợp lý hơn về mặt chính trị. Nước Mỹ có thể triển khai chủ nghĩa bảo hộ để ngăn chặn các nỗ lực của nước ngoài nhằm buộc chúng ta phải hấp thụ sản lượng hàng hóa dư thừa của Trung Quốc, Đức hoặc Nhật Bản. Những người theo chủ nghĩa bảo hộ hy vọng rằng chúng ta thậm chí có thể tạo ra sản lượng dư thừa của riêng mình nếu thuế quan chuyển tiền từ hộ gia đình sang các công ty (dưới hình thức giá cao hơn) và các công ty sử dụng khoản tiền bất ngờ đó để mở rộng sản xuất.

Lưu ý rằng kết quả cuối cùng theo một cách nào đó giống với cải cách quyền lợi: Ít tiêu dùng hơn ở Mỹ, chỉ thông qua việc kìm hãm nhu cầu bằng giá nhập khẩu cao hơn. Nhưng ngoài ra, hai chính sách này lại khác nhau—và không có lợi cho chủ nghĩa Trump, xét theo góc nhìn lý luận. Trong số nhiều vấn đề khác, chủ nghĩa bảo hộ có nguy cơ làm giảm sản lượng trong nước Mỹ, một cảnh báo xuất hiện từ các ngành công nghiệp trên khắp nước Mỹ có chuỗi cung ứng bị đe dọa bởi thuế quan. Nó chắc chắn không giúp ích gì cho năng suất sản xuất trong nước Mỹ. Ngược lại, cải cách quyền lợi có xu hướng là động lực to lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai, mang lại lợi ích cho các hộ gia đình khi tiền lương điều chỉnh theo lạm phát tăng lên.

Điều này giải thích cho lời thừa nhận gây sửng sốt gần đây của cố vấn thương mại của Trump là Peter Navarro rằng thuế quan có thể khiến nền kinh tế Mỹ thiệt hại 6 ngàn tỷ đô la trong 10 năm, và sự thật đáng kinh ngạc hơn là ông Navarro không hề xin lỗi về điều này.

Trump đã đặt cược là việc cắt giảm mức tiêu dùng của người Mỹ thông qua việc nâng giá sản phẩm cao hơn là một cách dễ chấp nhận hơn về mặt chính trị để cân bằng lại thương mại của Mỹ so với việc cắt giảm các quyền lợi. Hàng trăm triệu cử tri-người tiêu dùng Mỹ sẽ quyết định trong những tháng tới, rằng liệu họ có đồng ý với Trump hay không.

https://www.wsj.com/opinion/the-trade-secret-of-intellectual-trumpism-policy-tariffs-protectionism-goals-c9a704d4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét