Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021

Xét lại vai trò Tướng Giáp trong sử mới tại Việt Nam

Xét lại vai trò Tướng Giáp: Một quan điểm viết sử mới tại Việt Nam
"Bộ Chính trị đứng đầu là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã quyết đoán và linh hoạt trong hoạch định và chỉ đạo chiến lược rất sát sao, cụ thể đối với các chiến trường; đồng thời căn cứ vào diễn tiến cụ thể trên chiến trường và tình hình quốc tế, đã mau lẹ và kịp thời điều chỉnh kế hoạch thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam từ hai năm 1975-1976 xuống trong năm 1975, sau đó tới trước mùa mưa năm 1975, rồi ngay trong tháng tư năm 1975." Toàn văn cuốn sách của TS Lê Thu Nguyệt hiện có thể đọc trên trang web Đại tướng Lê Đức Anh.
ĐẢNG VÀ BÁC HỒ TỪ ĐIỆN BIÊN ĐẾN ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975

Đại tướng Võ Nguyên Giáp
"Thắng lợi Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 do Trung ương Đảng, Bộ Chính trị - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng tối cao và Tổng Bí thư Trường Chinh - trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo cụ thể trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự và ngoại giao, trong nước và quốc tế."
"Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư Trường Chinh và Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn là những người "đứng mũi chịu sào" chèo lái đưa con thuyền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc tới bến vinh quang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. "

Hai đoạn trên là trích từ một cuốn sách in gần đây tại Việt Nam, thể hiện một quan điểm viết sử, theo đó, vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, viên tướng nổi tiếng nhất Việt Nam thế kỷ 20, không lớn như hầu hết các sách chính thức tại Việt Nam truyền thống vẫn nói.

Cuốn sách "Đảng và Bác Hồ: từ Điện Biên đến Đại thắng mùa Xuân 1975" được Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông ấn hành năm 2015, khi kỷ niệm 40 năm thống nhất Việt Nam.

Tác giả sách là TS. Lê Trung Nguyệt (nguyên Trưởng phòng Khoa học Chính trị, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam).

Bà Lê Trung Nguyệt là con gái của ông Lê Đức Thọ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương suốt từ 1956 tới 1982 tại Hà Nội.

Trong sách, tác giả nhấn mạnh: "Không loại trừ được chủ nghĩa cá nhân ra khỏi quá trình nghiên cứu và tái hiện lịch sử cách mạng của dân tộc thì sẽ không khẳng định được trí tuệ lãnh đạo tập thể của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là ở những thời điểm bước ngoặt của cách mạng."

"Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư Trường Chinh và Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn là những người "đứng mũi chịu sào" chèo lái đưa con thuyền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc tới bến vinh quang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược."



Điện Biên Phủ: Vai trò Hồ Chí Minh lớn hơn Võ Nguyên Giáp?

Ngay trong chương mở đầu về kháng chiến chống Pháp, tác giả nhấn mạnh nhiều đoạn với hàm ý vai trò chỉ huy, chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tối cao.

"Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Biên giới do Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Chiến dịch, Cao Bằng là mục tiêu tấn công đầu tiên. Nhưng với tư duy binh pháp khi phân tích địa hình và bố trí lực lượng của địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phải đánh căn cứ Đông Khê trước, vì Đông Khê là vị trí quan trọng và cũng là nơi địch yếu hơn so với Cao Bằng, khi bị mất Đông Khê, địch phải đem quân đến ứng cứu, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt chúng."

Tổng kết chương này, tác giả lại nhấn mạnh vai trò của Hồ Chí Minh và Trường Chinh.

"Quá trình chuẩn bị và triển khai Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy rõ tầm nhìn chiến lược trong việc xác định chiến trường trọng điểm và tư duy quân sự độc đáo của Trung ương Đảng, trí tuệ lãnh đạo tập thể cùng sự chỉ đạo cụ thể, trực tiếp, toàn diện, sát sao, liên tục của Bộ Chính trị và Ban Bí thư - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh."

Tác giả nói: "Ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hội nghị Trung ương 4 khóa II, tháng 1 - 1953, về xây dựng pháo binh và quán triệt sâu sắc phương châm "đánh chắc, tiến chắc" có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi trọn vẹn của Chiến dịch Điện Biên Phủ."

Tác giả chỉ ra: "Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo và phê phán tư tưởng "ham đánh to, ăn to, chủ quan khinh địch", đồng thời cũng đã căn dặn "phải chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh". Nhưng trên thực tế, phương châm "đánh nhanh, thắng nhanh" vẫn được triển khai ngay cả từ đầu Chiến dịch Điện Biên Phủ (rồi buộc phải kéo pháo và đưa quân ra để bố trí lại) cũng như trong đợt tấn công lần thứ 2 (không đạt được mục tiêu đặt ra và bị tổn thất)."

"Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, chấn chỉnh liên tục và kiên quyết của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, cuối cùng thì phương châm "đánh chắc, tiến chắc" đã được tuân thủ."



Hồ Chí Minh và trận Mậu Thân 1968

Ở chương về tổng tiến công 1968, tác giả khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn nắm rõ kế hoạch và mạnh mẽ thông qua.

"Người đã cùng Bộ Chính trị họp bàn quyết định và chỉ đạo từng bước cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và đàm phán với ta."

Tác giả Lê Thu Nguyệt điểm qua các luận cứ bổ trợ cho khẳng định của bà, ví dụ như:

Cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10/1967, do Trường Chinh chủ trì. Tại đây, Văn Tiến Dũng báo cáo kế hoạch tác chiến đánh vào Sài Gòn và các thành phố khác để Bộ Chính trị phê duyệt.

Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp không tham dự cuộc họp này vì đang đi kiểm tra sức khỏe, khám chữa bệnh ở nước ngoài.



Lực lượng của Bắc VN và Mặt trận Giải phóng đã đồng loạt tấn công trên toàn Nam VN dịp Tết Mậu Thân 1968 và nhiều đợt sau nữa

Sau một tuần lễ nghe báo cáo và thảo luận, Trường Chinh kết luận: "Bộ Chính trị thống nhất ý kiến, thông qua kế hoạch quân sự để các đồng chí bên quân đội về triển khai cho kịp. Còn ba vấn đề phải suy nghĩ thêm: Nổi dậy, lập chính phủ liên hiệp và mở mặt trận ngoại giao, chờ anh Ba về sẽ họp tiếp".

Cũng trong tháng 10/1967, lực lượng công an nhân dân đã "phá tổ chức chống Đảng, làm tình báo cho nước ngoài của một số cán bộ cao cấp ở Hà Nội".

Ngày 10/11/1967, để ổn định tình hình nội bộ và khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân chuẩn bị thực hiện cuộc tiến công chiến lược Tết 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố "Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng".

Ngày 28/12/1967, Bộ Chính trị đã họp ra Nghị quyết về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam", quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết 1968.

Trong cuộc họp lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: "Kế hoạch phải thật tỷ mỉ; hợp đồng phải thật ăn khớp; bí mật phải thật tuyệt đối; hành động phải thật kiên quyết; cán bộ phải thật gương mẫu".

Nghị quyết này của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương khóa III thông qua và trở thành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương khóa III, tháng 1/1968.



Bí thư thứ nhất Lê Duẩn

Ngày 1/1/1968, vào lúc 14 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Bộ Chính trị, căn dặn một số công việc cần giải quyết trong thời gian tới.

16 giờ, ông rời Hà Nội đi Trung Quốc chữa bệnh.

Rạng sáng ngày 31/1/1968, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền và Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn miền Nam.

Ngày 22/4/1968, chỉ một ngày sau khi từ Bắc Kinh về tới Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã họp Bộ Chính trị, nghe báo cáo diễn biến toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Ngày 24/4/1968, Bộ Chính trị họp, chấp thuận đề nghị mở tiếp cuộc tiến công đợt 2 của Trung ương Cục miền Nam và để phối hợp với mặt trận ngoại giao. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về việc mở tiếp đợt 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Tám ngày sau, ngày 13/5/1968, phiên họp công khai đầu tiên giữa đoàn Mỹ với đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được khai mạc tại Hội trường Kléber, Paris.

Sách này nói gì về vai trò Lê Duẩn?

Với 26 năm liên tục đảm nhận cương vị Bí thư thứ Nhất và Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Duẩn được Đảng Cộng sản gọi là "chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng".

Dư luận người dân ở Việt Nam lâu nay vẫn xem Lê Duẩn và Lê Đức Thọ (bố của tác giả Lê Thu Nguyệt) là "cặp bài trùng" trong các quyết sách của Đảng nhiều thập niên.

Một số nhà nghiên cứu độc lập ở ngoài nước còn xem Lê Duẩn có vai trò chi phối trong Đảng, thậm chí lấn lướt Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay thập niên 1960.

Còn trong sách này, ở giai đoạn 1957-59, tác giả khẳng định ông Lê Duẩn đã ủng hộ chủ trương dùng vũ trang ở miền Nam.


Dinh Độc Lập trong ảnh chụp ngày 3/05/1975

Tháng 8/1956, Lê Duẩn hoàn thành bản dự thảo "Đề cương cách mạng miền Nam": "Nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống Mỹ - Diệm, để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng."

Sách dẫn lời Võ Chí Công nói cuối năm 1957, Lê Duẩn nói "khi đồng chí mới ra, đề nghị chuẩn bị họp Trung ương ra nghị quyết theo tinh thần Đề cương đó, nhưng có người phản đối vì sợ Mỹ tố cáo ta vi phạm Hiệp định Giơnevơ và lấy cớ đưa quân vào miền Nam".

Trong thư "Gửi anh Mười Cúc và các đồng chí Nam bộ ngày 7-2-1961", Lê Duẩn nhắc lại: "Hồi ấy, có đồng chí đề nghị không nên đấu tranh vũ trang vì sợ rằng dùng lực lượng vũ trang sẽ có hại cho việc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ. Nhưng tôi đã trình bày, đã nói rõ sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang."

Sách của bà Lê Thu Nguyệt nêu quan điểm: "Từ tiến trình khách quan của các sự kiện lịch sử, có thể thấy hai sự chậm trễ: chậm trễ kéo dài gần 2 năm mới thông qua được Nghị quyết Trung ương 15 khóa II và chậm trễ kéo dài 4 tháng mới phổ biến nghị quyết này cho Xứ ủy Nam bộ. Phải chăng, chính tư tưởng sợ Mỹ và ảnh hưởng theo giáo điều "thi đua hòa bình" đã là vật cản dẫn tới sự chậm trễ trong chuyển hướng chỉ đạo chiến lược sang đấu tranh vũ trang ở miền Nam, gây ra những tổn thất nặng nề?"

Vai trò của ông Lê Duẩn trong chiến dịch đánh miền Nam đầu năm 1975 được sách khẳng định.

Theo đó, ngày 8/1/1975, ông Lê Duẩn đã giao nhiệm vụ "dùng 3 sư đoàn quân chủ lực đánh Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với Đông Nam bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực Miền để tiến đánh Sài Gòn."

Nhưng sách cho hay ban đầu vẫn có ý kiến muốn đánh chi khu Đức Lập chứ không phải Buôn Ma Thuột.


Bộ đội cộng sản đem cờ Mặt trận Giải phóng vào cắm ở Dinh Độc Lập 30/04/1975

Vì thế, ngày 9/1, Lê Đức Thọ "bất ngờ tới dự cuộc họp" của Thường trực Quân ủy Trung ương để khẳng định quyết tâm đánh trận đầu vào Buôn Ma Thuột.

Ông Lê Đức Thọ nói: "Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?"

Do còn có ý kiến phân vân trong việc chọn đột phá khẩu, nên ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ "đã đề nghị Bộ Chính trị cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào chiến trường Tây Nguyên để chỉ đạo trực tiếp tại chỗ".

Trong chương này, tác giả kết luận: "Chiến thắng Buôn Ma Thuột cho thấy rõ tầm nhìn chiến lược sắc sảo cùng sự quyết đoán mau lẹ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo chỉ huy để bảo đảm đánh chắc thắng của Bộ Chính trị - đứng đầu là đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn."

"Quyết định sáng suốt của đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn về trận đánh mở đầu Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, đã được thực hiện thành công trọn vẹn do sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và mưu lược của Đại tướng Văn Tiến Dũng."

Tác giả khẳng định vai trò chỉ đạo tối cao của ông Lê Duẩn trong những trận đánh cuối cùng.

Ngày 18/3/1975, Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy Khu V, đã điện cho Lê Duẩn và Bộ Chính trị xin cho tấn công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng.

Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị điện trả lời đồng ý và nói: "Nếu thấy làm được thì giải phóng Đà Nẵng đi".

Ngày 24/3, họp Bộ Chính trị, Lê Duẩn nói: "Cuộc tổng tấn công bắt đầu. Tây Nguyên mở đột phá khẩu. Tiếp tục tấn công Đà Nẵng. Cuối cùng giải phóng Sài Gòn..."

Ngày 1/4, trong một bức điện gửi Trung ương cục miền Nam, Lê Duẩn chỉ thị cần phải hành động "thần tốc, táo bạo, bất ngờ" để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong tháng 4/1975.

Trong cả chương 8 về chiến dịch Hồ Chí Minh, tên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ được nhắc 3 lần.

Tác giả kết luận: "Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ trong lãnh đạo và chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam."

"Bộ Chính trị đứng đầu là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã quyết đoán và linh hoạt trong hoạch định và chỉ đạo chiến lược rất sát sao, cụ thể đối với các chiến trường; đồng thời căn cứ vào diễn tiến cụ thể trên chiến trường và tình hình quốc tế, đã mau lẹ và kịp thời điều chỉnh kế hoạch thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam từ hai năm 1975-1976 xuống trong năm 1975, sau đó tới trước mùa mưa năm 1975, rồi ngay trong tháng tư năm 1975."

Toàn văn cuốn sách của TS Lê Thu Nguyệt hiện có thể đọc trên trang web Đại tướng Lê Đức Anh.

Ông Lê Đức Anh (1920-2019), khi sinh thời, trực tiếp tham gia các diễn tiến của Chiến tranh Việt Nam, từng là Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-56900934
https://thuvienleducanh.vn/chi-tiet-sach?p_p_id=005_WAR_libraryportlet&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&_005_WAR_libraryportlet_bookId=5920

1 nhận xét:

  1. Tac gia la con gai ong Le duc Tho -mot hung than ,khat mau cua hanoi.Bai viet nay chi dung 1%-con mu chan nam mat toet biet gi ma noi ,khoac len minh GS TS toan bang giay .

    Trả lờiXóa