Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011

Bàn luận về mô hình Trung Hoa: Đối thoại giữa Fukuyama và Zhang Weiwei (II)


Bàn luận về mô hình Trung Hoa:
Đối thoại giữa Fukuyama và Zhang Weiwei (II)


Zhang. Trong phần trình bày của mình, TS Fukuyama đã nêu lên bốn vấn đề có liên quan tới mô hình Trung Quốc, cụ thể là tính giải trình và chịu trách nhiệm, pháp quyền, “ ngụy vương” và tính bền vững. Tôi muốn được đáp lại quan điểm của TS Fukuyama.

Những gì mà Trung Quốc đã và đang làm quả thực rất đáng quan tâm.  Có lẽ Trung Quốc ngày nay là một phòng thí nghiệm lớn của thế giới về cải cách chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp. Điều mà TS Fukuyama nói đã làm tôi liên tưởng tới cuộc đàm luận với tổng biên tập tờ báo Đức Die Zeit tháng 2 vừa rồi. Chủ đề lúc đó cũng là mô hình Trung Hoa. Sau chuyến thăm Thượng hải gần đây, ông TBT tờ báo đã có cảm nhận rằng có rất nhiều điểm tương đồng giữa Thượng hải và New York. Trong mắt ông ta Trung Quốc có vẻ như đang bắt chước mô hình Mỹ. Thậm chí ông ta đã đặt câu hỏi :” phải chăng không có mô hình Trung Quốc mà chỉ có mô hình Mỹ ?” Tôi khuyên ông ta nên quan sát Thượng hải kỹ hơn và hiểu thành phố sâu sắc hơn. Một người quan sát cẩn thận sẽ thấy rằng Thượng hải đã vượt New York trên nhiều phương diện.

Thượng hải không chỉ có hạ tầng “cứng”  tốt hơn New York, chẳng hạn như tàu điện cao tốc, đường ngầm, sân bay, cảng và nhiều phương tiện phục vụ thương mại mà còn cả hạ tầng “ mềm” nữa. Tuổi thọ trung bình ở Thượng hải cao hơn ở New York từ 3 đến 4 năm, tỷ lệ tử vong trong trẻ sơ sinh ở Thượng hải thấp hơn ở New York. Thượng hải là nơi an toàn hơn nhiều để các cô gái có thể đi dạo trên phố vào nửa đêm. Thông điệp mà tôi gửi tới cho học giả Đức là chúng tôi đã học nhiều điều ở Phương Tây và sẽ vẫn tiếp tục học trong tương lai , nhưng có một sự thật là chúng tôi đã nhìn xa hơn cả mô hình cả của Mỹ và phương Tây. Trong một chừng mực nào đó, chúng tôi đang  tìm tòi các hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp cho thế hệ kế tiếp. Trong quá trình đó , những vùng đã phát triển cao hơn của Trung Quốc như Thượng hải sẽ đóng vai trò tiên phong dẫn đầu. Còn bây giờ tôi muốn chia sẻ ý kiến của tôi trước những mối nghi ngại của GS. Fukuyama về mô hình Trung Hoa.


Thứ nhất, nói về tính giải trình và chịu trách nhiệm như GS Fukuyama đã tranh luận thì đây chính là hình thức dân chủ nghị viện đa đảng ở Phương Tây. Từng sinh sống ở Phương Tây hơn 20 năm, tôi cảm thấy rõ hơn bao giờ hết rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị hầu như không hiệu quả. Nói một cách thẳng thắn, theo quan điểm của cá nhân tôi thì hệ thống chính trị Mỹ có cội rễ từ thời kỳ tiền  công nghiệp hóa cho nên nhu cầu cải cách chính trị ở Mỹ cũng cấp thiết như ở Trung Quốc, nếu như không nói là nhiều hơn. Sự phân quyền trong lĩnh vực chính trị nói riêng đã tỏ ra kém hiệu quả để giải quyết các vấn đề của xã hội Mỹ ngày nay. Thực tế là hệ thống đó đã bất lực không thể ngăn cản cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Tôi cho rằng xã hội hiện đại có lẽ  cần những hình thức kiểm tra và đối trọng. Cần những đối trọng giữa các lĩnh vực chính trị, xã hội và vốn tư bản chứ không chỉ riêng một lĩnh vực chính trị. Sự phân quyền ở Mỹ có những yếu điểm của mình. Như GS Fukuyama đã phát biểu, có những nhóm lợi ích bất di bất dịch như các tổ hợp công nghiệp- quốc phòng sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình , và như vậy sẽ ngăn chặn các sáng kiến cải cách mà Mỹ đang cần.

Tôi cho rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm mà Trung Quốc đang thực hiện bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn hơn ở Mỹ. Cuộc thử nghiệm ở Trung Quốc bao gồm cả một loạt các lĩnh vực như kinh tế, chính trị và pháp luật. Chẳng hạn , chính quyền các cấp của chúng tôi đều có ban hỗ trợ phát triển kinh tế và tạo việc làm. Cán bộ của ban sẽ không được thăng chức nếu nhiệm vụ không hoàn thành. Tôi đã đọc bài báo của Paul Krugman, nhà kinh tế đã từng đoạt giải Nobel , trong đó ông viết rằng tăng trưởng kinh tế và việc làm hầu như ở mức “ chết” – con số O trong 10 năm qua ở Mỹ. Tuy nhiên không một huyện, tỉnh, thành phố nào của Trung Quốc trong suốt hai thập niên qua lại phải ghi nhận một kỷ lục nghèo nàn như vậy. Trái lại, thành tựu kinh tế trên toàn Trung Quốc rất ấn tượng. Điều này củng cố thêm cho thực tiễn của Trung Quốc về tính giải trình và chịu trách nhiệm trong kinh tế. Tất nhiên chúng tôi cũng có những vấn đề riêng của mình.

Cũng tương tự đối với tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp. Chẳng hạn như chúng tôi đang tiến hành đối thoại ở quận Jingan ở Thượng hải, đó là một quận kiểu mẫu của thành phố. Năm ngoái xảy ra một vụ hỏa hoạn thiêu rụi cả một tòa nhà chung cư trên địa bàn quận dẫn đến kết cục là khoảng 20 quan chức cấp quận thuộc các ban ngành có liên quan đã bị trừng phạt vì tội vô trách nhiệm hoặc sơ xuất trong công vụ. Đó là hiện thực của tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp  ở Trung Quốc .

Tương phản với những gì ở Trung Quốc, cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã làm cho các công dân Hoa kỳ mất từ  1/5 tới 1/4 tài sản của mình. Đã 3 năm trôi qua nhưng đâu có  ai ở Mỹ  bị quy trách nhiệm về chính trị, kinh tế hay pháp lý. Để góp phần làm cho tình hình tồi tệ thêm, các nhà tài phiệt – những nghi phạm đã gây nên cuộc khủng hoảng tài chính lại được trọng thưởng hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu Đôla. Tuy nhiên điều làm tức giận công chúng Mỹ và cả Tổng thống Obama là những khoản tiền thưởng đó vẫn tiếp tục được trao cho các ông trùm tài phiệt đó theo điều khoản hợp đồng pháp lý mà họ đã ký kết.

Điều này làm tôi nhớ tới vấn đề thứ hai liên quan tới khái niệm pháp quyền mà G.S Fukuyama đã nêu lên. Chúng tôi xúc tiến pháp quyền ở Trung Quốc , bởi vậy trên thực tế có rất nhiều thứ cần được cải thiện . Tuy nhiên tôi cho rằng có một vài nguyên lý cơ bản trong triết học truyền thống của chúng tôi vẫn giữ nguyên giá trị và còn phù hợp. Chẳng hạn, khái niệm  truyền thống về chữ “Thiên” hay “ Thiên đàng- Trời “ với ý nghĩa là lợi ích cốt lõi và lương tâm trong xã hội Trung Hoa. Đó là điều không được vi phạm.Ở Trung QuốcLuật pháp  được áp dụng nghiêm chỉnh trong 99.9% các trường hợp , chúng tôi chỉ dành một không gian nhỏ , nơi mà các giải pháp chính trị trong khuôn khổ pháp quyền vẫn được áp dụng trong khi “ thiên” hay các lợi ích cốt lõi và lương tâm của xã hội bị xâm hại. Nói cách khác, cách thưởng tiền của phố Wall như đã nêu trên không bao giờ có thể xảy ra ở Trung Quốc. Bởi vậy chúng tôi cố gắng phá vỡ sự cân bằng giữa pháp quyền và “ thiên” . Đó là cái mà Trung Quốc muốn tìm kiếm  cho chế độ pháp lý trong tương lai. Nếu không, chúng tôi sẽ trở thành nạn nhân của cái được gọi là chủ nghĩa tuân thủ pháp luật thái quá rất có thể gây tổn hại cho một xã hội  phức tạp và lớn như Trung Quốc.

Về vấn đề “ ngụy vương” đã có ngay lời giải . Theo ước tính sơ bộ của tôi trong lịch sử có cả “ ngụy vương” và “ minh vương” thì ít ra cũng có tới 7 triều đại kéo dài được hơn 250 năm. Nói cách khác, đó là quãng  thời gian dài hơn cả toàn bộ lịch sử Hoa kỳ.Đúng ra thì  toàn bộ lịch sử cận đại của Phương Tây mới chỉ được khoảng hai- ba trăm năm nhưng đã chứng kiến nào là chế độ nô lệ,chủ nghĩa phát xít, vô số xung đột và hai cuộc thế chiến.

Theo quan điểm của tôi, sự đổi mới thể chế chính trị của Trung Quốc hiện nay đã giải quyết dứt điểm vấn đề “ ngụy vương”. Điều đầu tiên và trước hết, lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc được chọn lựa theo phẩm chất , công trạng mà không theo “cha truyền con nối”. Thứ hai là, nhiệm kỳ công tác được quy định nghiêm ngặt, lãnh đạo tối cao không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Thứ ba là, lãnh đạo theo nguyên tắc tập thể, có nghĩa là không cá nhân lãnh đạo nào có thể đi quá lệch khỏi sự đồng thuận của nhóm . Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tuyển chọn người tài là một truyền thống lâu đời ở Trung Quốc và các nhà lãnh đạo cao cấp hoặc các ủy viên thường trực BCT ĐCS Trung Quốc được bầu chọn với tiêu chí thông thường là đã phải qua hai nhiệm kỳ là chủ tịch tỉnh hoặc bộ trưởng.

Như các bạn biết, không hề dễ dàng để lãnh đạo một tỉnh ở Trung Quốc , thường có tầm cỡ của 4 tới 5 quốc gia Châu Âu. Hệ thống này có thể có những yếu điểm nhưng có một điều chắc chắn rằng với hệ thống tuyển chọn nhân tài đó thì Trung Quốc  khó có thể lại

bầu ra một lãnh đạo tầm cỡ quốc gia bất tài như George.W.Bush hoặc Naoto Kan ở Nhật bản. Thực ra , tôi không quan tâm đến vấn đề “ ngụy vương” ở Trung Quốc bằng vấn đề “ George .W.Bush “ ở Mỹ.

Nếu hệ thống chính trị Hoa kỳ vẫn sẽ như hôm nay thì tôi thực sự lo rằng Tổng thống Mỹ sắp tới sẽ còn bất tài hơn cả George.W.Bush . Với tư cách là một siêu cường, các chính sách của Mỹ có ảnh hưởng toàn cầu cho nên một sự thiếu vắng lãnh đạo hay tính giải trình và chịu trách nhiệm ở Mỹ sẽ có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Tôi muốn nghe quan điểm của G.S Fukuyama về vấn đề “ George. W.Bush”. Tổng thống Bush đã điều hành đất nước tồi nên Mỹ đã suy thoái mạnh sau tám năm cầm quyền.  Ngay cả một đất nước như Hoa kỳ cũng không thể chịu đựng nổi thêm tám năm suy thoái nữa.

Về tính bền vững của mô hình Trung Quốc, trong cuốn sách mới đây của tôi nhan đề “Làn sóng Trung Hoa” , tôi đã đưa ra luận điểm rằng Trung Quốc là một nhà nước văn hiến có một không hai , với logic và chu kỳ phát triển riêng của mình. Bởi thế cho nên ý tưởng về các “ triều đại” là rất có ích ở đây. Một triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc thường kéo dài từ 200 đến 300 năm , có khi lâu hơn và logic này đã được kiểm chứng trong 4000 năm qua. Từ viễn cảnh đó thì Trung Quốc hiện nay mới đang ở giai đoạn đầu của một chu kỳ đi lên. Đó cũng là lý do vì sao tôi lại lạc quan về tương lai của Trung Quốc đến vậy.

Sự lạc quan của tôi còn có chỗ dựa là khái niệm “ khí ” hay còn gọi là xu hướng chủ đạo là thứ mà rất khó quay ngược lại , một khi đã được bắt đầu. Xu hướng phát triển được khởi đầu ở Nhật bản nhờ cải cách của  Minh Trị vào cuối thế kỷ 19 , trong khi đó Trung Quốc đã không làm được điều này do sức ỳ bên trong quá lớn, tức là “ âm khí” vượng. Ngày nay “ vận khí “ hay xu hướng chủ đạo mới đã được bắt đầu và tạo được đà mạnh mẽ sau 3 thập kỷ cải cách và mở cửa. Xu thế chủ đạo này khó có thể bị đảo ngược cho dù vẫn có những làn sóng ngược chiều. Vận khí này đang định hình xu hướng chủ đạo  đại chu kỳ phát triển của Trung Quốc. Điều không hay là có nhiều học giả Phương Tây không hiểu điều này nên đã đưa ra những dự báo bi quan về một sự “sụp đổ” của Trung Quốc từ 20 năm nay. Thay vào sự sụp đổ của Trung Quốc thì chính những dự báo đó đã sụp đổ. Một số người Trung Quốc trong nước vẫn còn nghiêng về lập trường bi quan này , nhưng tôi nghĩ rằng lập trường đó cũng sẽ “sụp đổ” mà không phải đợi tới 20 năm nữa.

G.S Fukuyama có nhắc tới sự  quá lệ thuộc  của mô hình Trung Quốc vào thương mại. Quả thực Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào ngoại thương, thế nhưng sự phụ thuộc đó hơi bị thổi phồng . Ngoại thương chiếm một tỷ trọng lớn GDP nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức. Thế nhưng ngoại thương được tính theo US $ , phần còn lại của GDP thì lại được tính theo Nhân dân tệ được định giá thấp hơn thực tế. Do vậy , theo tôi thì sự phụ thuộc vào ngoại thương bị đánh giá quá cao so với thực tế.

Nhìn về tương lai thì có thể nhu cầu nội địa của Trung Quốc sẽ lớn nhất thế giới. Quá trình đô thị hóa Trung Quốc cho tới năm 1998 còn chưa được khởi động. Nhưng từ nay trở đi sẽ có tới 15-25 triệu dân cư chuyển ra thành thị hàng năm ở Trung Quốc. Một mức độ đô thị hóa chưa từng có trong lịch sử loài người sẽ tạo ra nhu cầu khổng lồ của thị trường nội địa, theo ước tính sẽ còn lớn hơn cả nhu cầu gộp lại của toàn bộ các nước phát triển trong tương lai.

Nếu nói về sự tôn trọng các giá trị cá nhân, tôi không nghĩ là có sự khác biệt lớn giữa Trung Quốc với phần còn lại của thế giới.Mục tiêu cuối cùng thì đâu cũng vậy , đều là tôn trọng và bảo vệ những giá trị và quyền con người.  Nhưng sự khác biệt chính là ở phương tiện để đạt mục tiêu đó. Trung Quốc có  truyền thống triết lý riêng tương phản với triết lý về cá nhân ở Phương Tây và cách tiếp cận của Trung Quốc dựa trên truyền thống của mình mang lại những kết quả tốt hơn để khuyến khích các giá trị và quyền con người.

Tôi mô tả vấn đề này qua ví dụ  về các cách tiếp cận khác nhau giữa  Đặng Tiểu Bình và Mẹ Teresa . Cách của Đặng đã giúp cho gần 400 triệu người Trung Quốc thoát cảnh nghèo đồng thời mang lại giá trị cũng như quyền  con người ,chẳng hạn : họ có thể xem TV, lái xe trên đường cao tốc , lướt Internet hay Blog để bình luận về đủ mọi vấn đề. Thế nhưng ở Ấn độ , dù bằng phương pháp cá nhân của Mẹ Teresa đã có rất nhiều người đã được giúp đỡ và Mẹ được vinh dự nhận giải Nobel về Hòa bình, nhưng bức tranh về đói nghèo ở Ấn độ vẫn không thay đổi nhiều.

Tôi muốn đề cập tới sự tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định. Quả thực tôi rất hy vọng là G.S Fukuyama sẽ có cơ hội nghiên cứu trên thực địa tại Trung Quốc. Vậy quá trình ra quyết định một cách dân chủ được tiến hành như thế nào ở Trung Quốc? Cho phép tôi đưa ra một ví dụ, ở Trung Quốc cứ 5 năm một lần chúng tôi lại xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Đó là một quá trình kết tinh của hàng chục ngàn đợt góp ý, thảo luận trên mọi cấp độ trong xã hội Trung Quốc. Theo tôi, đó mới thực sự là một quá trình ra quyết định dân chủ , có thể bảo đảm chất lượng cho các quyết định. Sự chênh nhau giữa Phương Tây và Trung Quốc nhìn theo góc độ này , chân thành mà nói ,  là rất lớn. Theo thiển ý của tôi thì Trung Quốc đã đạt tới “ mức sau đại học” còn Phương Tây có thể còn đang “học đại học” hoặc thậm chí còn đang “ ở cấp độ trung học” , nếu lấy việc này để làm cơ sở so sánh.

Những bất ổn ở Trung đông , thoạt nhìn có thể nghĩ là người dân theo đuổi tự do. Thế nhưng một trong những nguyên nhân gốc rễ của vấn đề , theo tôi hiểu lại không nằm ngoài lĩnh vực kinh tế. Tôi đến Cairo 4 lần. Hai mươi năm trước thành phố này tụt hậu khoảng 5 năm so với Thượng hải, còn giờ đây sự chênh lệch là 40 năm. Một nửa số người độ tuổi thanh niên thất nghiệp. Nếu không nổi loạn thì họ còn biết làm chi đây ?

Quan sát tình hình Trung đông đã đưa tôi tới kết luận rằng , trong khi có nhiều người ở Phương Tây ăn mừng Mùa xuân A rập thì đừng quá lạc quan. Tôi hy vọng rằng khu vực này sẽ ổn thỏa nhưng sẽ khó khăn trước mắt và Mùa xuân A rập ngày hôm nay có thể sẽ biến thành mùa đông A rập không lâu nữa với việc quyền lợi của Hoa kỳ sẽ bị suy yếu.Tình hình ở khu vực không khá hơn Trung Quốc  hồi cách mạng Tân Hợi 1911 bởi một giai đoạn  hỗn loạn kéo dài sau đó. Trung đông còn phải đi qua một con đường dài và chúng ta hãy đợi và thấy điều gì sẽ tới.

Fukuyama. Tôi xin phép trả lời từng câu hỏi một. Trước tiên,khi so sánh những hệ thống chính trị khác nhau thì tôi nghĩ rằng nên tách bạch các chính sách riêng ra khỏi các thiết chế.Có nghĩa là phải nhìn thấy sự khác nhau giữa những chính sách cụ thể do một vài lãnh đạo nào đó đưa ra với cả hệ thống tổng thể nói chung. Rõ ràng là những người ra quyết định ở Hoa kỳ đã từng phạm rất nhiều sai lầm, ví dụ như chiến tranh Iraq buộc chúng tôi phải trả giá đắt. Hay như cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ phố Wall là kết quả của hệ tư tưởng thị trường tự do, tiêu dùng gia đình quá trớn và sự sự mở rộng quá mức của thị trường bất động sản. Tuy nhiên những lỗi lầm trong chính sách là điều có thể xảy ra với mọi chế độ vào bất kỳ lúc nào. Tôi không nghĩ rằng các chế độ dân chủ lại có xu hướng đưa ra những chính sách sai lầm nhiều hơn các nhà nước độc tài. Thực tế là , các chế độ độc tài và toàn trị luôn gặp nhiều rắc rối nghiêm trọng hơn. Những sai lầm có thể tiếp tục níu kéo toàn xã hội vì không thể dễ dàng đuổi   cổ những kẻ đã ra quyết định. Bởi vậy cái giá phải trả rốt cục sẽ rất lớn.

Ngài nói rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ lựa chọn một nhà lãnh đạo quốc gia như George .W.Bush. Thôi được, kể cũng hơi nặng nề khi nói như vậy. George . W.Bush làm Tổng thống trong 8 năm, nếu ngài quay trở lại với vấn đề “ ngụy vương” thì ngụy vương gần đây nhất của Trung Quốc , nói rất chân thành , chính là Mao Trạch Đông. Sự tàn phá mà Cách mạng văn hóa đã gây ra cho xã hội Trung Quốc còn nghiêm trọng hơn rất nhiều những gì mà George.W.Bush đã làm đối với xã hội Mỹ.

Ngài cũng có nhắc tới một vài đặc trưng của lãnh đạo Trung Quốc. Tôi công nhận những mặt tích cực của lối lãnh đạo tập thể và việc hạn chế nhiệm kỳ đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Nếu Gaddafi hoặc Mubarak  bị hạn chế nhiệm kỳ thì Libia và Ai cập đã không bất ổn như vậy.

Ngài cũng phát biểu rằng sự đồng thuận cần đạt được trong nội bộ lãnh đạo trong khi đưa ra những quyết định quan trọng. Theo ý tôi, điều này chính là một bài học được rút ra từ Cách mạng Văn hóa. Trong quá khứ, sự đồng bóng, trái tính của một cá nhân đã gây tổn hại cho cả xã hội. Bởi vậy ĐCS đã phải lập ra những thiết chế, trong đó có quy định về nhiệm kỳ.

Tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ  đối với hệ thống của Trung Quốc. Có nhiều người  Mỹ không thể nhận thấy  một thực tế : mặc dù Trung Quốc là quốc gia độc tài nhưng lại được thể chế hóa cao, có sự kiểm soát và đối trọng trong hệ thống của mình. Tuy nhiên chúng ta cần phải suy nghĩ về dài hạn.

Cơ cấu của thể chế hiện nay trong ĐCS Trung Quốc được tạo nền móng từ ký ức và kinh nghiệm  của những người từng sống qua cuộc cách mạng văn hóa. Cho tới giờ ở Trung Quốc người ta  vẫn chưa thể nói nói hết những gì về giai đoạn lịch sử đó. Các ngài không dạy thế hệ trẻ về những gì đã diễn ra trước đây ,  họ chưa hề trải nghiệm cách mạng văn hóa và rồi sẽ quên sự kiện đó . Nhưng vấn đề ở chỗ là điều gì sẽ xảy ra nếu như thế hệ mới không có kinh nghiệm và hiểu biết về những vết thương tâm lý trong một xã hội của nền độc tài toàn trị . Liệu họ có sẵn sàng sống với sự kiểm soát sử dụng quyền lực hiện nay  không?

Bởi vậy vì sao tôi vẫn tin rằng một hình thái pháp trị có kiểm soát và đối trọng trong dài hạn sẽ có ý nghĩa sống còn chứ không chỉ dựa vào ký ức và kinh nghiệm của một thế hệ. Nếu chẳng may thế hệ tiếp theo không có những  thứ đó thì họ rất có thể lặp lại sai lầm . Thể chế pháp quyền và dân chủ chính là phương tiện để gìn giữ những gì được coi là tốt, là tích cực, tiến bộ của ngày hôm nay và truyền lại cho những thế hệ sau.

Trong cuốn sách mới hoàn thành của tôi có một điều được nêu lên như một luận cứ,  đó   là tất cả chúng ta đều có  bản chất chung của loài người. Chính vì có những đặc tính đó nên con người như chúng ta mới yêu thương gia đình, anh , chị em và con cái. Quý trọng bạn bè và gia đình là cách tự nhiên trong quan hệ xã hội giữa người với người. Tuy vậy , chúng ta không thể đặt nền móng của các hệ thống chính trị trên quan hệ bạn bè và gia tộc được. Bởi vậy, một trong những kỳ tích của nền chính trị Trung Hoa là đã thiết lập nên được hệ thống chính trị mang tính thể chế cao , không phụ thuộc vào quan hệ bạn hữa và gia đình, giòng tộc cũng như các mối quan hệ cá nhân khác.

Theo cách đó, để được nhận vào các cơ quan công quyền thì phải thi bất kể người đó có ảnh hưởng thế nào. Hệ thống tuyển chọn này đã được thể chế hóa đầy đủ từ đầu thời Tiền Hán vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Nhưng  vào cuối thời Hậu Hán , khoảng thế kỷ thứ 3, hệ thống chính trị bị tầng lớp quý tộc soán quyền, chủ yếu đó là những gia tộc giàu có và nắm nhiều quyền lực. Sau đó là thời kỳ Tam quốc rất phức tạp và rối ren trong lịch sử Trung Hoa.  Chủ yếu là các gia tộc giàu có đã soán quyền đồng thời thủ tiêu chế độ tuyển dụng người tài đương thời. Tôi cho rằng điều này có thể xảy ra đối với bất kỳ hệ thống chính trị nào.

Đó cũng là điều mà tôi lo ngại cho chính hệ thống của Mỹ hiện nay bởi lẽ có những tầng lớp siêu giàu. Họ có thể chăm sóc con cái họ trong những điều kiện rất hoàn hảo và gửi chúng tới những trường học rất tốt. Tất nhiên đó chưa phải là những gì đang diễn ra ở Trung Quốc nhưng có thể sẽ trở thành mối đe dọa đối với hệ thống Trung Quốc.

Bằng cách nào để có thể đảm bảo rằng tầng lớp tinh hoa lãnh đạo đất nước được tuyển chọn trên cơ sở tài năng lại không thiên vị gia tộc và bạn bè mình ? Tôi cho rằng trong mấy thập kỷ qua, ĐCS Trung Quốc đã làm tốt công việc . Tuy nhiên vẫn tồn tại vấn nạn tham nhũng trong toàn bộ hệ thống,  vì ai mà chả muốn quan tâm nhiều hơn tới họ hàng, bạn bè và con cái của mình. Tôi cho rằng một trong những vấn đề nội tại của hệ thống thiếu sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị  của cấp trên đối với cấp dưới và  đa số quần chúng đó là rất khó ngăn cản sự len lỏi của những mối quan hệ riêng tư vào hệ thống chính trị. Đó là nan đề mà tôi cho rằng cho tới nay vẫn chưa có lời giải.

Tuy vậy, trong dài hạn, để duy trì hệ thống cho hai hay ba thập niên nữa tôi cho rằng Trung Quốc cần đẩy mạnh sự giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với quần chúng ở dưới nhằm giải quyết nan đề này. Ít ra thì trong một hệ thống dân chủ, nếu có sai thì vẫn có thể sửa sai, đôi khi cũng mất một vài năm.

Cho phép tôi nói qua về một nhận định liên quan tới nước Mỹ. Chúng tôi đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính. Như G.S Zhang đã phát biểu là không ai bị trừng phạt. Tôi cũng nghĩ rằng điều này thật là khủng khiếp vì chúng tôi đã không buộc những người có trách nhiệm về cuộc khủng hoảng này phải chịu trách nhiệm. Tại sao lại xảy ra điều này quả là rất phức tạp.Nhưng tôi không cho rằng nó liên quan tới hệ thống chính trị dân chủ của chúng tôi . Năm 1930 đã có một cuộc khủng hoảng tài chính còn lớn hơn hiện nay dẫn tới việc bầu chọn Roosevelt làm Tổng thống và thiết lập hệ thống an sinh xã hội và điều hành chính quyền đổi mới. Người ta đã đưa ra nhiều biện pháp mạnh bởi lẽ nhân dân tức giận về những gì đã xảy ra. Hệ thống của chúng tôi đã thiết lập được một sự giải trình và chịu trách nhiệm thực sự để đối phó với những sai lầm trong chính sách như thế đó.

Theo một nghĩa nào đó, tôi thậm chí  còn nghĩ rằng trong vài năm vừa rồi ở Mỹ một cách chính thức , cuộc khủng hoảng  vẫn chưa tới mức quá lớn, bởi vì trên thực tế ,các nhà hoạch định chính sách trong phạm vi nào đó đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của nó. Bởi vậy động năng chính trị có lợi cho cải cách đã bị xói mòn và điều này giải thích tại sao chúng tôi  đã không kịp thời có những cải cách chế độ điều hành. Nhưng dù sao tôi không nghĩ rằng hệ thống dân chủ của chúng tôi đã gây nên cuộc khủng hoảng hiện nay.


Zhang. Quốc gia nào cũng có những sự kiện hoặc lỗi lầm khủng khiếp trong lịch sử phát triển của mình, kể cả Trung Quốc. Cách mạng Văn hóa và Đại nhảy vọt quả thực là những thảm họa. Tôi từng trải qua cách mạng Văn hóa và có những ký ức của riêng mình . Tuy vậy cần phải nhấn mạnh lại rằng không có quốc gia nào là ngoại lệ. Hoa kỳ có một trang sử của sự thảm sát người da đỏ và chế độ nô lệ cũng như tệ kỳ thị chủng tộc được thể chế hóa kéo dài hơn một thế kỷ. GS Fukuyama cho rằng các sai lầm

được khắc phục bởi chính hệ thống Hoa kỳ thì Cách mạng văn hóa và Đại nhảy vọt cũng đã được sửa sai bởi chính hệ thống Trung Quốc. Vấn đề “ ngụy vương” cũng được giải quyết bởi hệ thống Trung Quốc. Ngày nay không một cá nhân lãnh tụ nào có thể đi ngược lại quy định thể chế bởi lẽ ở Trung Quốc đã hình thành hệ thống chuyển giao quyền lực kết hợp giữa lựa chọn và bầu chọn .

Tôi cho rằng hệ thống hỗn hợp này có thể là tốt hơn việc bầu cử đơn thuần ở Phương Tây, đặc biệt trong bối cảnh tìm kiếm một hệ thống chính trị cho thế hệ sau.. Cái mà Phương Tây đang thực hành đó là tăng cường hệ thống bầu bán qua  tranh cử mà tôi gọi là “những cuộc trình diễn dân chủ” hay “dân chủ kiểu Hollywood”. Đó là sự thể hiện khả năng trình diễn nhiều hơn là khả năng lãnh đạo. Chừng nào mà quy trình này vẫn hoạt động thì không quan trọng ai sẽ trúng cử, dù là ngôi sao điện ảnh hay vận động viên điền kinh chuyên nghiệp. Ngược lại,  theo truyền thống quản trị xã hội truyền thống có một ý tưởng rất quan trọng cần tuân thủ , đó là quốc gia chỉ có thể được điều hành bởi những người đủ tài năng và kinh nghiệm , được lựa chọn theo chế độ tuyển dụng nhân tài. Điều này đã ăn sâu vào tiềm thức của người Trung Hoa.

G.S Fukuyama có nhắc tới Chủ tịch Mao. Một mặt, đúng là ông đã có những lỗi lầm nghiêm trọng. Nhưng mặt khác, chúng ta không nên bỏ qua một sự thật là ngày nay ông vẫn được tôn trọng khắp nơi trên đất Trung Hoa. Điều này nói lên rằng Mao đã làm gì đó đúng đắn. Sẽ không sòng phẳng nếu phủ nhận thành tựu chủ yếu của ông , đầu tiên là thống nhất một đất nước rộng lớn như Trung Quốc; hai là, giải phóng phụ nữ và ba là, cải cách ruộng đất. Đặng Tiểu Bình đã có lần phát biểu công của Mao so với tội sẽ là tỷ lệ 70%  trên 30%. Chính tai tôi đã nghe thấy những lời này và cho rằng như vậy mới công bằng. Có lẽ sự khác biệt trong nhận thức của Mao xuất phát từ sự khác biệt về truyền thống văn hóa : Trung Quốc có truyền thống thay đổi chính trị trong khi đó Phương Tây  lại thay đổi pháp lý.

Nhờ có ba thập niên cải cách và mở cửa một tầng lớp trung lưu đã hình thành và ổn định vị thế. Tôi chia xã hội Trung Quốc ra làm ba giai tầng : thượng , trung và hạ. Cơ cấu này có thể ngăn chặn chủ nghĩa cực đoan trên diện rộng như dưới thời Mao. Thứ chủ nghĩa cực đoan đó vẫn có ở các quốc gia như Ai cập bởi lẽ ở đó còn thiếu tầng lớp trung lưu. Cơ cấu xã hội này cho thấy lý do vì sao Trung Quốc sẽ không nghiêng về chủ nghĩa cực đoan.

Về vấn đề tham nhũng, tôi cho rằng cần phải làm một sự so sánh theo “chiều dọc” và cả “ chiều ngang”. Tham nhũng ở Trung Quốc là nghiêm trọng và không dễ ngăn cản. Tuy nhiên khi nhìn lại lịch sử thế giới các bạn sẽ thấy rằng tất cả các cường quốc , kể cả Mỹ đã trải qua những giai đoạn tham nhũng tăng cao và thường trùng hợp với quá trình hiện đại hóa nhanh chóng. Như thầy dậy của ngài là Samuel Huntington đã quan sát thấy rằng quá trình hiện đại hóa nhanh nhất thường đi kèm tình trạng tham nhũng tăng cao nhất. Điều này xảy ra chủ yếu là do chế độ điều hành và giám sát không theo kịp sự tăng trưởng về tài sản và vốn khi diễn ra quá trình hiện đại hóa nhanh chóng.

Rốt cục thì nạn tham nhũng ở Trung Quốc sẽ bị chặn đứng và được giải quyết thông qua sự thiết lập những thiết chế giám sát và điều hành hữu hiệu hơn.

Tôi từng  qua Mỹ nhiều lần  và thấy rằng cách định nghĩa thế nào là tham nhũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trong cuốn sách mới viết , tôi đã đưa ra khái niệm “ tham nhũng 2.0” khi mà cuộc khủng hoảng tài chính đã làm phát lộ rất nhiều vấn đề nghiêm trọng của “ tham nhũng  2.0”. Chẳng hạn như các cơ quan đánh giá mức tin cậy về tài chính đã thu lời qua kinh doanh trên thị trường chứng khoán bằng cách trao cho các sản phẩm và định chế tài chính thiếu minh bạch chứng chỉ AAA. ( là mức có độ tin cậy cao trên thị trường chứng khoán quốc tế – ND ). Tôi coi đó là tham nhũng. Thế nhưng ở Mỹ người ta lại gọi đó là “ rủi ro đạo đức” trong hệ thống pháp lý Mỹ. Tôi cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính có thể được ngăn chặn hiệu quả hơn nếu vấn đề này bị xử lý như là tham nhũng.

Chúng ta cũng có thể so sánh theo chiều ngang. Tôi đã đi thăm hơn 100 quốc gia. Thực tế sinh động cho thấy , mặc dù ở Trung Quốc người ta phàn nàn rất nhiều về tham nhũng , nhưng ở các nước khác  tình hình còn tồi tệ hơn rất nhiều. Để so sánh chúng ta tìm hiểu các quốc gia có kích cỡ từ 50 triệu dân trở lên và đang ở cùng trình độ phát triển, chẳng hạn như Ấn độ, Ukraina, Pakistan, Brazil , Ai cập và Nga. Kết quả đánh giá của tổ chức Minh bạch quốc tế cũng đồng thanh với nhân định của tôi.

Hơn thế nữa cần phải nhìn Trung Quốc theo các vùng miền khác nhau. Các vùng đã phát triển của Trung Quốc miễn dịch tốt hơn với tham nhũng. Có lần tôi làm việc ở Italy với tư cách là giáo sư mời, nhân tiện tôi thăm Hy lạp vài lần và nghĩ rằng Thượng hải dứt khoát ít tham nhũng hơn Italy và Hy lạp. Ở miền nam nước Ý , Mafia nghiễm nhiên hợp pháp hóa sự tồn tại của mình thông qua hệ thống dân chủ. Lần đầu tiên tôi tới thăm Hy lạp cách đây 20 năm  , khi đó thâm hụt ngân sách rất cao. Còn giờ đây Hy lạp đang phá sản và cần sự hỗ trợ quốc tế. Tôi nói với các bạn Hy lạp của mình rất chân thành : “ hai mươi năm trước, Thủ tướng của các bạn là Papandreou. Hai mươi năm sau Thủ tướng của các bạn vẫn là Papandreou. Nền chính trị của các bạn có vẻ như là công việc của một vài gia đình và nền kinh tế Hy lạp bị phá sản bởi lẽ hệ thống an sinh xã hội thì quá cao còn thực tiễn quản trị lại quá nghèo nàn, kém cỏi.” Có lần tôi còn đùa rằng chúng tôi cần gửi một đội ngũ các nhà quản trị từ Thượng hải hoặc Chongqing để giúp đỡ Hy lạp quản trị tốt hơn. Quả thực , bất kể là hệ thống chính trị nào, độc đảng , đa đảng hoặc không đảng phái thì rốt cục vẫn là vấn đề quản trị hiệu quả và mang lại được gì cho nhân dân của mình. Bởi vậy, quản trị tốt là điều quan trọng hơn dân chủ hóa theo phong cách Phương Tây.

Điều này  đã đưa tôi tới chính đề “sự cáo chung của lịch sử” mà GS Fukuyama nêu lên. Tôi chưa công bố quan điểm của mình , tuy nhiên nó hoàn toàn đối lập với GS Fukuyama. Tôi nhìn nhận rằng:  không phải một sự cáo chung  của lịch sử mà phải là chấm hết cho sự cáo chung của lịch sử.

Dân chủ Phương Tây có thể chỉ là một hình thái mang tính giai đoạn trong lịch sử lâu dài của loài người. Tại sao tôi lại nghĩ vậy ? 2500 năm trước , một vài thành phố – quốc gia chẳng hạn như Athen đã thực hiện dân chủ trong số các công dân nam giới của mình và sau đó lại bị khởi nghĩa Sparta đánh bại. Từ đó cho tới nay, hơn 2000 năm trôi qua từ “dân chủ” chủ yếu mang một nghĩa rộng tiêu cực, thông thường là tương đương với “chính trị của đám đông dân chúng”. Các quốc gia Phương Tây không thực thi hệ thống mỗi người một lá phiếu ở nước họ mãi cho tới khi quá trình hiện đại hóa ở nước họ đã hoàn thành.

Thế nhưng ngày nay hệ thống chính trị dân chủ kiểu này không thể giải quyết các vấn đề lớn sau đây.

-       Thứ nhất  là, thiếu vắng văn hóa “ tài năng phải là đầu tiên”. Bất cứ ai được bầu lên đều có thể điều hành đất nước. Điều này đã trở nên quá đắt đỏ tới mức không chịu nổi thậm chí đối với Mỹ.

-       Thứ hai là , gói dịch vụ an sinh xã hội chỉ có thể tăng thêm chứ không giảm đi. Bởi vậy không thể tiến hành những cải cách như Trung Quốc đã thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng và các xí nghiệp nhà nước.

-       Thứ ba là, càng ngày càng khó khăn để tạo ra sự đồng thuận ở các quốc gia dân chủ. Ngày trước, đảng thắng cử với 51% phiếu bầu đã có thể tập hợp toàn xã hội ở các nước phát triển. Ngày nay, xã hội Mỹ đang bị chia rẽ sâu sắc và phân cực. Đảng nào thất cử, thay vì thừa nhận thất bại lại tiếp tục gây cản trở.

-       Thứ tư là, những vấn đề đơn giản có tính chất dân túy có thể làm giảm sút mối quan tâm vào các vấn đề dài hạn của đất nước và xã hội. Ngay cả Mỹ cũng đang bị mối đe dọa này rình rập.

 Năm 1793, Vua George III của Anh quốc đã phái đặc phái viên của mình tới Trung Hoa để mở mang thương mại hai chiều. Thế nhưng vua Càn long đã quá ngạo mạn vì tin rằng Trung Hoa mới là quốc gia nhất thế giới. Bởi vậy Trung Quốc chẳng cần học hỏi ai. Điều này  khi đó đã được định nghĩa là “ sự cáo chung của lịch sử”, và từ đó Trung Hoa bị tụt hậu . Còn giờ đây tôi lại nhận thấy một tư duy tương tự ở Phương Tây.

Cần phải tới Trung Quốc đê tận mắt chứng kiến Trung Quốc đã tự cải cách như thế nào trong ba thập kỷ qua. Mỗi bước đi nhỏ nhưng cuộc  hành trình không ngừng, không nghỉ. Phương Tây vẫn có niềm tin mạnh mẽ vào hệ thống của mình, tuy nhiên đó cũng chính là cái hệ thống ngày càng trở nên có  lắm vấn đề. Hy lạp, cái nôi của nền dân chủ Phương Tây đang phá sản, còn nợ ngân sách của Anh đã cao tới 90% tổng sản phẩm quốc dân.

Vậy còn Hoa kỳ thì sao ? Tôi làm một con tính đơn giản, cuộc tấn công 9/11 làm hao tổn cho Mỹ 1000 tỷ $. Hai cuộc chiến không khôn ngoan lắm làm tốn gần 3000 tỷ $ và khủng hoảng tài chính khoảng 8000 tỷ $. Hiện nay nợ ngân sách của Mỹ vào khoảng từ 10000 tỷ$ tới 20000 tỷ$. Nói cách khác, nếu đồng Đôla Mỹ mà không phải là đồng tiền dự trữ quốc tế – mà vị thế này có thể không kéo dài mãi- thì Mỹ đã bị coi là đã phá sản rồi.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc, điều mà chúng tôi vẫn gọi là “  vận khí ” hay xu hướng chủ đạo có tầm cỡ và tốc độ chưa có tiền lệ trong lịch sử loài người. Cảm nhận của riêng tôi là hệ thống Phương Tây đang trượt dốc nên cần cần đại tu và cải cách. Một số người Trung Quốc luôn miệng ca ngợi và tôn thờ mô hình Mỹ , thế nhưng đối với những ai đã sống ở Châu Âu và đi Mỹ nhiều lần thì điều này là quá giản đơn và ngây thơ. Cần phải khách quan khi so sánh Trung Quốc với các nước Phương Tây. Cái gì là điểm mạnh và điểm yếu của Phương Tây ? Đâu là ưu điểm và nhược điểm của chúng ta và điều gì đáng học hỏi hay ghi nhận từ Phương Tây ? Đó mới là lối tư duy đúng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét